| Hotline: 0983.970.780

Ở đâu có đất rừng, ở đó có cây xanh

Thứ Tư 27/11/2013 , 11:10 (GMT+7)

Là địa phương có nhiều dân tộc cùng sinh sống, dân cư sống xen kẽ với rừng, nếu không giác ngộ và vận động nhân dân cùng tham gia bảo vệ, phát triển rừng, thì những cánh rừng ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình khó giữ được màu xanh.

Là địa phương có nhiều dân tộc cùng sinh sống, dân cư sống xen kẽ với rừng, nếu không giác ngộ và vận động nhân dân cùng tham gia bảo vệ, phát triển rừng, thì những cánh rừng ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình khó giữ được màu xanh.

Nho Quan có tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp là 17.292,9 ha, chiếm 3/5 diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn tỉnh, phân bố rộng trên 17/27 xã, thị trấn, trong đó có 3 xã vùng cao là vùng đệm của Vườn Quốc gia Cúc Phương.

Nếu mất rừng Nho Quan, toàn bộ khu vực Tam Điệp, Gia Viễn, Hoa Lư sẽ có nguy cơ cạn kiệt nguồn nước, gây khó khăn cho đời sống dân sinh và đẩy ngành du lịch của tỉnh trở nên điêu đứng. Bởi thế, công tác bảo vệ và phát triển rừng luôn được chính quyền và Hạt Kiểm lâm huyện Nho Quan coi trọng.

Đồng chí Trần Viết Hùng, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Nho Quan cho biết: Với đặc thù là một huyện miền núi, có nhiều dân tộc cùng sinh sống, điều kiện kinh tế còn khó khăn (đặc biệt là 3 xã Kỳ Phú, Phú Phương, Phú Long), những năm 1990 trở về trước, rừng Nho Quan bị tàn phá nặng nề.


Anh Ngô Minh Tân, cán bộ kiểm lâm Trạm Kiểm lâm Phú Long thăm rừng keo của bà con

Người dân đua nhau lên rừng xẻ gỗ dựng nhà sàn, chặt củi lấy chất đốt và làm nương rẫy. Trong khi đó, lực lượng kiểm lâm khi ấy quá mỏng, chưa có kiểm lâm phụ trách địa bàn nên dù có “ba đầu sáu tay”, xoay như chong chóng cũng không quản lý xuể.

Để làm tốt công tác bảo vệ rừng, giảm thiểu hiểm hoạ cháy rừng có thể xảy ra, Hạt đã phối hợp chặt chẽ với UBND huyện Nho Quan và chính quyền các xã thực hiện đồng bộ các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng; kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi phá rừng làm gương cho những người khác, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục, nâng cao hiểu biết của người dân về tầm quan trọng của rừng đối với đời sống dân sinh.

Bước ngoặt có ý nghĩa quyết định nhất đối với việc bảo vệ và phát triển rừng là năm 1994, khi Nghị định 02/CP của Chính phủ về giao đất lâm nghiệp được ban hành. Đến cuối năm 2008, huyện đã giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho 2.552 hộ gia đình với tổng diện tích 2.382,836 ha. Hiện nay, 100% diện tích rừng và đất lâm nghiệp đã có chủ, có sự quản lý của Nhà nước.

“Khi người dân được tự chủ trên mảnh đất của mình, họ sẽ phát huy tối đa khả năng sáng tạo để làm giàu cho đất. Nhiều mô hình trang trại vườn rừng cho hiệu quả kinh tế cao đã được hình thành, tiêu biểu như mô hình trồng bạch đàn thuần ở xã Thạch Bình; mô hình trồng cây hỗn giao xã Xích Thổ, mô hình trồng luồng ven chân núi đá của xã Phú Long…

Trong tổng số hơn 17.000 ha đất lâm nghiệp, chỉ có 1.077 ha đất trống, chủ yếu là đất núi đá lộ đầu, cây rừng không thể phát triển. Diện tích rừng trồng 2.190 ha rừng, hàng năm đã cung cấp hàng nghìn m3 gỗ củi cho nhu cầu dân dụng, tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương. Kết quả đó đã đóng góp một phần tích cực trong việc xoá đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân vùng nông thôn, miền núi”, ông Hùng nói.

Chúng tôi tìm đến các xã Phú Long, Kỳ Phú, Phú Phương - những địa phương một thời là điểm nóng của các vụ việc phá rừng ở Nho Quan, để tìm hiểu cuộc sống của bà con. Những khu đất trống, đồi trọc giờ đã trở thành rừng keo xanh mướt mát nằm sát ven đường. Thỉnh thoảng, tôi lại bắt gặp một chiếc xe tải chở gỗ nguyên liệu giấy bon bon ra khỏi cửa rừng.

Anh Ngô Minh Tân, Trạm trưởng Trạm Kiểm lâm Phú Long bảo: “Năm 2009, toàn bộ khu rừng trồng keo ở các xã Phú Long, Kỳ Phú, Phú Lộc, Quỳnh Lưu, Sơn Lai, Quảng Lạc, Sơn Hải đã được 5 năm tuổi rồi.

Nay đã có thể cho thu hoạch để làm nguyên liệu giấy cho nhà máy Bãi Bằng (Phú Thọ) với doanh thu khoảng 60 - 70 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, vì thời hạn giao đất của nhà nước kéo dài 7 năm nên nhiều hộ dân chưa vội bán, chờ cây to hơn để xuất gỗ cho các xưởng mộc”.

Anh Ngô Minh Tân cũng là chủ một khu rừng keo rộng 10 ha nên hiểu được giá trị kinh tế rất lớn mà cây keo lai mang lại. “Với 1 ha, chủ rừng chỉ mất từ 3,5 đến 4 triệu đồng để mua giống, thuê người trồng. Đến năm thứ 3, cây keo bắt đầu cho thu nhập từ việc phát dọn, tỉa thưa với giá 900.000 đ/tấn gỗ nguyên liệu. Đó là một biện pháp để lấy ngắn nuôi dài chờ ngày gỗ lớn”, anh Tân chia sẻ.

Nhiều hộ dân bản địa được giao bảo vệ rừng khoanh nuôi núi đá đã được hỗ trợ hàng chục triệu đồng mỗi tháng. Tiêu biểu như ông Bùi Trọng Nguyên (bản Ao Lươn, xã Kỳ Phú) nhận bảo vệ hơn 100 ha rừng; ông Nguyễn Văn Thành (thôn 7, xã Phú Long) nhận bảo vệ khoảng 100 ha rừng…

Hàng trăm hộ dân được giao đất trồng rừng cũng đã thoát nghèo và trở thành triệu phú, tỷ phú. Đối với người dân Nho Quan, rừng đã thực sự là vàng nếu biết bảo vệ và phát triển.

Xem thêm
Nghệ An: Tôm chết hàng loạt, nghi do bệnh mới

Tôm chết nhiều trên diện tích khoảng 25ha, trong đó phần đa xuống giống chưa được bao lâu. Đây là hồi chuông báo động đối với nghề hoàng kim một thời ở Nghệ An.

Điều động 1 kíp tàu tuần tra, phòng chống khai thác IUU

Từ ngày 22/4, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu điều động 1 kíp tàu tuần tra, kiểm soát kết hợp tuyên truyền phòng, chống khai thác IUU trên vùng biển do đơn vị quản lý.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm