Cụ thể, các hội, hiệp hội gồm: Hội Chăn nuôi Việt Nam, Hiệp hội Thức ăn chăn nuôi Việt Nam, Hiệp hội Chăn nuôi Gia súc lớn Việt Nam, Hiệp hội Chăn nuôi Gia cầm Việt Nam kiến nghị gửi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ về các lĩnh vực như sau.
Đó là bỏ quy định công bố hợp quy với mặt hàng thức ăn chăn nuôi (TĂCN) và thuốc thú y. Áp dụng đồng loạt việc không tính thuế giá trị gia tăng với các sản phẩm chăn nuôi đang ở dạng sơ chế bảo quản và kiểm soát chặt vấn đề nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi.
Văn bản kiến nghị nêu rõ, do tác động kép của hậu đại dịch Covid-19, xung đột vũ trang ở Ukraina, Trung Đông khiến tình hình sản xuất và thương mại chăn nuôi trong nước thời gian qua và hiện nay đang phải đối mặt rất nhiều khó khăn, thách thức.
Giá thức ăn, thuốc thú y, vật tư đầu vào liên tục tăng cao, giá đầu ra của các sản phẩm chăn nuôi luôn đứng ở mức thấp, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm vẫn diễn biến phức tạp, một số thủ tục hành chính bất cập, tình trạng nhập siêu các sản phẩm chăn nuôi khiến rất nhiều các hộ chăn nuôi, các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị thua lỗ kéo dài, đứng trước nguy cơ phá sản hàng loạt trong thời gian tới.
Trước bối cảnh đó, các Hội, Hiệp hội ngành hàng thuộc lĩnh vực chăn nuôi kiến nghị Thủ tướng Chính phủ và Chủ tịch Quốc hội cùng các bộ, ngành, ủy ban liên quan xem xét, tháo gỡ một số vấn đề bất cập.
Công bố hợp quy mang tính hình thức
Kiến nghị Chính phủ và Quốc hội cho chỉnh sửa quy định này trong Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật. Trong thời gian chờ sửa Luật, cho phép tạm ngừng việc thực hiện công bố hợp quy với mặt hàng TĂCN và thuốc thú y.
Lý do do sửa đổi bởi việc quản lý TĂCN và thuốc thú y theo quy chuẩn kỹ thuật (QCKT) là cần thiết nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm cho con người và sức khỏe vật nuôi.
Tuy nhiên, QCKT của các nhóm mặt hàng này chỉ nên là những quy định kỹ thuật bắt buộc người sản xuất, kinh doanh phải thực hiện và là căn cứ để các cơ quan quản lý kiểm tra, xử lý các vi phạm, như nhiều nước đang áp dụng và cũng như lĩnh vực quản lý an toàn thực phẩm tại Thông tư số 24/2013/TT-BYT của Bộ Y tế (quy định mức giới hạn tối đa cho phép dư lượng thuốc thú y trong sản phẩm thực phẩm).
Việc phải áp dụng hình thức công bố hợp quy với TĂCN và thuốc thú y như hiện nay chỉ mang tính hình thức, không có hiệu quả quản lý, nhưng làm phát sinh nhiều chi phí, thời gian của người dân và doanh nghiệp.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, sản xuất TĂCN và thuốc thú y là ngành sản xuất kinh doanh có điều kiện. Theo đó các cơ sản sản xuất, kinh doanh các mặt hàng này phải đáp ứng đủ điều kiện sản xuất do cơ quan nhà nước đến đánh giá, thẩm định cấp Giấy chứng nhận trước khi sản xuất và hàng năm đều có đánh giá giám sát duy trì của cơ quan này, chưa kể lại còn có việc kiểm tra, thanh tra định kỳ, đột xuất của các cơ quan chức năng khác của Bộ hoặc địa phương, việc này lại còn có các Tổ chức chứng nhận hợp quy đến cơ sở đánh giá quy trình sản xuất và lấy mẫu thử nghiệm để công bố hợp quy cho các sản phẩm TĂCN, thuốc thú y là không cần thiết và gây trùng lặp.
Theo quy định của pháp luật, QCKT là do Nhà nước ban hành, nhằm quản lý các chỉ tiêu gây mất an toàn, ảnh hưởng không tốt tới môi trường, sức khỏe con người, vật nuôi và bắt buộc người dân, doanh nghiệp phải thực hiện việc giám sát nghiêm ngặt.
Chỉ tiêu chất lượng sản phẩm sẽ do doanh nghiệp tự quyết định và công bố để người sử dụng biết và lựa chọn. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều QCKT, đặc biệt trong lĩnh vực thuốc thú y đã đưa hầu hết các chỉ tiêu chất lượng vào trong QCKT để quản lý.
Quy định này không phù hợp với Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa và Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, làm phát sinh chi phí và khó khăn trong thực thi pháp luật của người dân, doanh nghiệp.
Việc công bố hợp quy các sản phẩm TĂCN, thuốc thú ý hiện nay là hoàn toàn hình thức, mang nặng tính đối phó của người dân, doanh nghiệp đối với các quy định của Nhà nước, vì việc đánh giá công bố hợp quy sản phẩm là quá trình đánh giá điều kiện và quy trình sản xuất, lấy mẫu điển hình để thử nghiệm.
Tuy nhiên, đối với mặt hàng TĂCN và thuốc thú y hiện nay, việc đánh giá này đã được các cơ quan Nhà nước đánh giá công nhận đủ điều kiện khi cơ sở đi vào sản xuất kinh doanh (SXKD) và tiếp tục được đánh giá giám sát duy trì trong quá trình SXKD, trong đó có cả biện pháp lấy mẫu đại diện để thử nghiệm về các chỉ tiêu an toàn theo quy định trong các QCKT và chỉ tiêu chất lượng công bố để giám sát và xử lý các vi phạm. Do vậy, việc đánh giá công bố hợp quy đối với các sản phẩm TĂCN và thuốc thú y của các tổ chức chứng nhận hợp quy như hiện nay là trùng lặp và chồng chéo.
Mặt khác, trong các cơ sở sản xuất, dây chuyền công nghệ chế biến TĂCN và thuốc thú y hầu như ổn định, nhưng nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất TĂCN, thuốc thú y liên tục thay đổi. Ví dụ sắn rẻ dùng nhiều sắn, ngô rẻ, cám gạo rẻ dùng nhiều ngô, cám… Do vậy, việc tổ chức chứng nhận hợp quy đến nhà máy chỉ lấy mẫu thử nghiệm của lần đánh giá đó để chứng nhận cho cả quá trình SXKD sản phẩm sẽ không có tính đại diện.
Đó là chưa kể, hiện nay các tổ chức chứng nhận hợp quy đến đánh giá cho một cơ sở chế biến TĂCN hoặc thuốc thú y có tới cả hàng trăm sản phẩm đăng ký lưu hành, nhưng chuyên gia đánh giá chỉ đến chứng kiến thực tế quy trình sản xuất của một vài sản phẩm trên dây chuyền để lấy mẫu thử nghiệm, còn hầu hết các sản phẩm còn lại là do chủ cơ sở tự phối trộn, tự chuẩn bị để các tổ chức chứng nhận lấy mẫu về phân tích cho đủ hồ sơ công bố, chứ chẳng chứng minh được vấn đề gì.
Trong khi đó, chi phí cho việc đánh giá công bố hợp quy đối với sản phẩm TĂCN và thuốc thú y là rất tốn kém. Chỉ tính riêng phần chi phí phân tích thử nghiệm mẫu đã là rất lớn, cụ thể, với TĂCN hoặc thuốc thú y dao động từ 2 - 4 triệu đồng/sản phẩm và từ 10 - 20 triệu đồng/sản phẩm vacxin của lần đánh giá công nhận và còn lấy mẫu thử nghiệm trong đánh giá duy trì, đánh giá lại khi kết thúc chu kỳ sản phẩm là 3 năm.
Nếu tính cho 1 doanh nghiệp có hàng trăm sản phẩm và cả ngành chăn nuôi, thú y có hàng ngàn cơ sở sản xuất thì chi phí này đã mất tới hàng trăm tỷ đồng, chưa kể làm mất thời gian và sự nghiêm túc của người dân, doanh nghiệp trong thực thi pháp luật.
Không tính thuế giá trị gia tăng
Kiến nghị Chính phủ và Quốc hội cho chỉnh sửa nội dung này trong Luật Thuế giá trị gia tăng. Trong thời gian chờ sửa Luật, tạm dừng chưa thực hiện quy định này đối với các sản phẩm chăn nuôi, vì các lý do:
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 1 Luật Thuế gia trị gia tăng sửa đổi năm 2016, đối tượng không chịu thuế là:
“Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu. Doanh nghiệp, hợp tác xã mua bán sản phẩm, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã khác thì không phải kê khai tính nộp thuế giá trị gia tăng, nhưng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào”.
Theo quy định này, các sản phẩm chăn nuôi như trứng gia cầm được làm sạch, đóng gói; thịt gia súc gia cầm sau giết mổ, làm mát, cấp đông… nếu do các doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) mua bán, trao đổi với nhau thì được miễn thuế giá trị gia tăng 5%, nhưng nếu các doanh nghiệp, HTX sản xuất, kinh doanh bán mặt hàng này cho người dân, hộ kinh doanh cá thể thì phải mất thuế 5%. Quy định này đang gây rất nhiều khó khăn cho việc tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi sản xuất trong nước, vì:
Ở Việt Nam, phần lớn các sản phẩm chăn nuôi chưa qua chế biến đang được tiêu thụ tại các hộ kinh doanh cá thể và trong các chợ truyền thống. Nên nếu các sản phẩm chăn nuôi qua sơ chế, giết mổ công nghiệp đã phát sinh nhiều chi phí so với giết mổ thủ công (vấn đề đang gây quá nhiều rủi ro về dịch bệnh, an toàn thực phẩm và môi trường) lại phải cộng thêm 5% thuế giá trị gia tăng, sẽ không thể cạnh tranh nổi với các sản phẩm chăn nuôi “trôi nổi không được kiểm soát chất lượng, an toàn, thuế” và với các sản phẩm chăn nuôi cùng loại nhập khẩu, như thịt đông lạnh, gà nguyên con không chịu thuế giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu.
Hiện, trong chuỗi sản xuất chăn nuôi của nước ta, khâu yếu nhất chính là giết mổ và chế biến. Vấn đề này đã được nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích phát triển theo hướng tập trung, công nghiệp, nhưng đến nay vẫn chưa thành công.
Nhiều doanh nghiệp đầu tư nhà xưởng, dây chuyền thiết bị hiện đại, tốn kém, như: Dabaco, Masan, Visan, C.P, Deheus.. nhưng sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, sản lượng sản xuất thực tế chỉ chiếm trên dưới 30% công suất thiết kế.
Nguyên nhân chính của những tồn tại này là chúng ta chưa kiểm soát được hoạt động giết mổ thủ công về điều kiện sản xuất, kinh doanh và các chính sách thuế mà chính thuế giá trị gia tăng 5% của các sản phẩm chăn nuôi sơ chế đang là trở ngại cho hoạt động này của các doanh nghiệp, HTX, trong khi đó Nhà nước cũng không thu được là bao nhiêu đối với dòng thuế này.
Kiểm soát chặt nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi
Có thể nói, so với các nước có nền chăn nuôi phát triển, các quy định về nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi của nước ta chưa chặt chẽ, còn nhiều lỗ hổng. Trong khi đó, để xuất khẩu được sản phẩm thịt trứng gia cầm, chúng ta phải chịu rất nhiều rào cản kỹ thuật nghiêm ngặt tại các nước nhập khẩu, khiến các mặt hàng sản phẩm chăn nuôi của ta đang bị yếu thế và thiệt thòi ngay trên sân nhà.
Theo số liệu thống kê, năm 2023, kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi là 3,53 tỷ USD, trong khi xuất khẩu chỉ có 515.000 USD.
Ngoài con số nhập khẩu chính ngạch nêu trên, còn một khối lượng rất lớn vật nuôi và sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu tiểu ngạch (nhập lậu). Theo phản ánh của cơ quan chức năng và truyền thông, trong năm 2023 và những tuần đầu của năm 2024, mỗi ngày có 6.000 - 8.000 con lợn thịt (khối lượng 100 - 120 kg/con) được nhập lậu vào Việt Nam, chưa kể lượng lớn trâu, bò, gà thải loại, gà giống…
Việc nhập khẩu ồ ạt các sản phẩm chăn nuôi vào nước ta hiện nay đang là vấn đề hệ trọng, gây ra rất nhiều rủi ro, hệ lụy.
Gây lan truyền dịch bệnh, nhất là những dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có bệnh dịch tả lợn Châu Phi, bệnh cúm gia cầm và viêm da nổi cục trên trâu, bò.
Gây áp lực cạnh tranh không công bằng với các sản phẩm chăn nuôi trong nước. Vì sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu chính ngạch hiện nay, phần lớn là thứ phẩm mà ở các nước họ ít dùng làm thực phẩm, như đầu, cổ cánh, tim cật, lòng mề, gà đẻ và bò sữa thải loại… chưa kể đó còn là các loại thực phẩm đã gần hết hạn sử dụng nên có giá rất rẻ, chỉ bằng 1/2 giá trong nước cùng loại khi nhập về.
Gây rủi ro lớn về chất lượng và an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng, nhất là ở khu vực bếp ăn tập thể cho học sinh, quân nhân, công nhân… đang là đối tượng sử dụng phần lớn các loại thực phẩm đông lạnh nhập khẩu này.
Làm mất cơ hội và động lực đầu tư của doanh nghiệp, người chăn nuôi trong nước và về lâu dài sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề an ninh lương thực, thực phẩm quốc gia.
Với tốc độ nhập khẩu như hiện nay, thì chỉ 3 - 5 năm tới khi các dòng thuế quan các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu về mức 0% Việt Nam sẽ trở thành nước siêu nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi. Đây có thể là một ngoại lệ diễn ra quá nhanh so với nhiều nước trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Nhà nước cần có chính sách và thời gian để người chăn nuôi và doanh nghiệp trong nước có thể thích nghi được.
Các Hội, Hiệp hội kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả và các Bộ NN-PTNT, Công thương, Khoa học và Công nghệ, Công an, Quân đội tăng cường các biện pháp kiểm tra, kiểm soát chặt vấn đề nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi.
Đối với nhập khẩu chính ngạch: Khẩn trương xây dựng các hàng rào kỹ thuật và các chính sách thương mại để hạn chế thấp nhất việc nhập khẩu chính ngạch các sản phẩm chăn nuôi.
Trong đó, có vấn đề tăng cường các biện pháp kiểm dịch, kiểm tra chất lượng và hạn chế thấp nhất số lượng các cửa khẩu được phép nhập khẩu vật nuôi sống vào Việt Nam, như kinh nghiệm của các nước trên thế giới, điển hình là Mỹ, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc… họ làm rất có hiệu quả.
Ví dụ, họ đưa ra các yêu cầu về xử lý nhiệt lạnh với công nghệ phức tạp, chi phí cao hay mỗi nước trung bình chỉ cho phép có từ 3 - 5 cửa khẩu đường bộ, đường biển, đường hàng không là được phép nhập khẩu vật nuôi sống mà thôi. Trong khi Việt Nam chúng ta đang có tới trên 30 cửa khẩu các loại được phép nhập khẩu vật nuôi sống vào trong nước.
Đối với nhập khẩu tiểu ngạch: Cấm tất cả mọi hình thức nhập khẩu và sử dụng các loại vật nuôi, sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu theo hình thức này, vì sản phẩm chăn nuôi trong nước chúng ta đã cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước, ngoài ra Việt Nam có đường biên giới dài, các nước xung quanh chưa phải là những nước có công tác thú y, kiểm soát tốt dịch bệnh.
Nên nếu không có những biện pháp kiểm soát quyết liệt vấn đề nhập lậu vật nuôi và sản phẩm chăn nuôi, thì nhất định chúng ta không thể kiểm soát được dịch bệnh và sản xuất chăn nuôi trong nước, như kinh nghiệm của Trung Quốc và Thái Lan họ đã làm rất thành công.