| Hotline: 0983.970.780

Bắc Giang huy động hơn 5.000 tỷ đồng

Thứ Năm 22/10/2015 , 06:05 (GMT+7)

Trải qua hơn 4 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, tỉnh Bắc Giang đã đạt được thành quả bước đầu, đáng khích lệ. 

Quá trình xây dựng NTM đã mở ra cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn Bắc Giang bộ mặt mới, đời sống nông dân được nâng cao.

Ngay từ khi Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng NTM chọn xã Tân Thịnh, huyện Lạng Giang làm điểm xây dựng NTM ở miền núi trung du, bà con nông dân ở trong tỉnh Bắc Giang đã náo nức theo dõi từng bước triển khai Chương trình xây dựng NTM ở Tân Thịnh. Tháng 7/2011, Tỉnh ủy Bắc Giang có Nghị quyết 145NQ/TU và UBND tỉnh có Kế hoạch 45KH/UB chính thức triển khai Chương trình xây dựng NTM của tỉnh.

Hơn 4 năm triển khai, thực hiện Chương trình xây dựng NTM, tỉnh Bắc Giang đã đạt được những thành quả to lớn. Toàn tỉnh đã huy động hơn 5.000 tỷ đồng đầu tư cho xây dựng NTM. Trong đó người dân đóng góp 336 tỷ đồng, 7,2% tổng vốn đầu tư, cao hơn cả số vốn Trung ương và tỉnh đầu tư cho xây dựng NTM trong hơn 4 năm. Phong trào xây dựng NTM đã khơi dậy tinh thần, ý thức vì cộng đồng của người nông dân.

Ông Nguyễn Văn Khái, GĐ Sở NN-PTNT Bắc Giang, cho biết, đã lâu, chưa có phong trào nào lại được nông dân nhiệt tình hưởng ứng như phong trào xây dựng NTM. Hàng nghìn hộ nông dân tự nguyện hiến 5.650 ha đất để mở đường, xây dựng kênh mương và các công trình phúc lợi công cộng.

“Đến đầu năm 2015, 100% số xã ở trong tỉnh có điện, 178 xã đạt tiêu chí về điện, đạt 88,1% số xã. Phong trào “Chung tay xây dựng NTM” đã huy động được sức mạnh của toàn xã hội, kiên cố hóa trường học đạt 83,5%; 76,1% tổng số trường lớp đạt chuẩn quốc gia, 77% số trạm y tế xã được củng cố, nâng cấp đạt chuẩn quốc gia. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao được các xã quan tâm, 2.124 nhà văn hóa được sửa chữa nâng cấp và xây mới, 148 xã xây được khu văn hóa thể thao”, ông Khái nói.

Cũng theo ông Khái, cái được lớn nhất từ thực hiện Chương trình xây dựng NTM ở Bắc Giang là giúp cho nông dân có nhận thức, tư duy mới về SXNN hàng hóa, theo cơ chế thị trường. Thông qua quy hoạch, Bắc Giang đã xác định được các vùng chuyên canh SX cây, con tập trung có sản lượng hàng hóa lớn như: Vùng vải thiều Lục Ngạn, vùng vải thiều sớm ở Tân Yên, vùng nuôi gà đồi Yên Thế...

Sau hơn 4 năm xây dựng NTM, tỉnh đã có 480 trang trại trồng trọt, chăn nuôi được cấp giấy chứng nhận của Bộ NN-PTNT. Để tạo cơ sở cho phát triển nông nghiệp hàng hóa, toàn tỉnh đã vận động dồn điền đổi thửa được 5.515 ha. Các xã xây dựng NTM đều quy hoạch được cánh đồng mẫu lớn có diện tích từ 20-50ha, có đường nội đồng, kênh mương kiên cố. SXNN có bước đổi mới, phát triển mạnh. Giá trị thu nhập đạt từ 70-80 triệu đồng/ha, tăng gấp hơn 2 lần so với trước khi triển khai Chương trình xây dựng NTM, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 8%.

Tuy nhiên, theo đánh giá của ông Khái, hầu hết các xã trong tỉnh mới dừng ở khâu quy hoạch vùng. Người nông dân, chủ thể của NTM, vẫn SX theo sự chỉ đạo nên chưa phát huy được ý thức làm chủ, sáng tạo. Vì vậy, khi hết sự hỗ trợ của Nhà nước, các mô hình SX yếu đi, thiếu sự bền vững.

Theo báo cáo tổng hợp của Ban Chỉ đạo xây dựng NTM của tỉnh Bắc Giang, đến nay đã có 33 xã được công nhận đạt 100% tiêu chí NTM. Các xã còn lại đều đạt trung bình 12,3 tiêu chí. Một trong những bài học kinh nghiệm để đạt được kết quả trên là công tác lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành thường xuyên, thống nhất từ việc xây dựng kế hoạch tới chỉ đạo triển khai cụ thể, sáng tạo, kịp thời và linh động trong thực tiễn điều kiện địa phương. Ngoài ra, sự đồng thuận của nông dân cũng là một yếu tố quan trọng dẫn tới thành công.

Mặt khác, sản phẩm hàng hóa ngày càng lớn, nhưng thị trường tiêu thụ chưa được mở rộng. Sản phẩm nông nghiệp ở Bắc Giang mới có vải thiều, gà đồi Yên Thế là hai thương hiệu được thị trường chấp nhận nhưng cũng chưa được bền vững vì SX phụ thuộc thiên nhiên và phân tán theo từng hộ, chưa có sự liên kết, hợp tác, chất lượng sản phẩm không đồng đều, gây khó cho tiêu thụ.

Nền tảng của nông thôn nói chung được thể hiện ở nền tảng kinh tế, văn hóa. Vậy mô hình NTM của Bắc Giang thế nào? Trong dịp đi tìm hiểu Chương trình NTM ở các huyện Hiệp Hòa, Yên Dũng, được biết, hiện hầu hết các xã mới chỉ làm điểm NTM ở cấp thôn, rồi mới từng bước rút kinh nghiệm để nhân ra toàn xã. Ngoài ra, quy hoạch vùng SX tập trung, quy hoạch khu dân cư... vẫn chưa được hoàn thiện triệt để.

Đối với một tỉnh miền núi như Bắc Giang, thu ngân sách còn hạn chế, thì việc đầu tư cho xây dựng hạ tầng NTM cũng không nhiều. Tuy nhiên, tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí ở một số địa phương trong tỉnh vẫn diễn ra phổ biến.

Một trong những minh chứng là việc xây dựng nhà văn hóa thôn. Có xã xây tới 9-10 nhà văn hóa, tốn kém hàng chục tỷ đồng nhưng hiệu quả sử dụng hạn chế vì nội dung, chương trình hoạt động không có, họp hành ở nông thôn cũng ít.

Mặc dù còn có những khó khăn nhất định, song thời gian tới, để hoàn thành mục tiêu đề ra trong năm 2015 và giai đoạn 2016-2020 của Chương trình xây dựng NTM, tỉnh Bắc Giang xác định tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm. Bên cạnh đó, sẽ làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền để đoàn kết, tập hợp người dân tham gia phong trào sôi nổi, có hiệu quả cao.

Xây dựng NTM là sự nghiệp muôn đời từ thế hệ này sang thế hệ khác. Xây dựng NTM không phải chỉ trong vài năm với 19 tiêu chí là xong. Với những thành quả bước đầu, hy vọng Chương trình xây dựng NTM ở Bắc Giang sẽ sớm thành công, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho nông dân.

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm