| Hotline: 0983.970.780

Bảo tồn phát triển các giống cá bản địa quý hiếm

Thứ Ba 15/03/2022 , 10:25 (GMT+7)

Những giống cá bản địa quý hiếm ở tỉnh Hà Giang như anh vũ, rầm xanh, chiên, lăng chấm, chày đất, mỵ… đang cần được bảo tổn và nhân rộng tổng đàn.

Cán bộ Trung tâm Thủy sản Hà Giang nghiên cứu, nhân nuôi những giống cá bản địa quý hiếm. Ảnh: Văn Thưởng.

Cán bộ Trung tâm Thủy sản Hà Giang nghiên cứu, nhân nuôi những giống cá bản địa quý hiếm. Ảnh: Văn Thưởng.

Hà Giang là tỉnh có nhiều sông suối, ghềnh thác lớn với tổng chiều dài trên 300km. Nguồn nước trong sạch, dồi dào là môi trường sống của nhiều loài thuỷ sản như cá, giáp xác, nhuyễn thể… Trong đó có 6 loài cá bản địa quý hiếm như cá anh vũ, rầm xanh, chiên, lăng chấm, chày đất, mỵ … đã được đưa vào Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000, 2007) với mức độ đe doạ bậc VI.

Hiện nay, các bãi đẻ tự nhiên của cá bản địa quý hiếm ở Hà Giang gần như không còn do việc hình thành các đập ngăn dòng làm thủy lợi, thuỷ điện. Bên cạnh đó do sự tán phá của những cánh rừng đầu nguồn... làm thay đổi dòng chảy và môi trường sinh thái, đặc biệt là ảnh hưởng đến tập tính sinh sản của cá. Vì vậy, phân bố của các loài này có nhiều thay đổi cộng việc khai thác quá mức cá bằng các dụng cụ huỷ cũng ảnh hưởng đến việc sinh sống và tồn tại của những giống cá bản địa quý.

Từ tháng 9/2018 đến tháng 12/2021, Trung tâm Thủy sản tỉnh Hà Giang đã triển khai thực hiện đề tài: Lưu giữ, bảo tồn, và phát triển nguồn gen một số loài thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Theo anh Đỗ Tuấn Anh, cán bộ Trung tâm Thủy sản tỉnh Hà Giang, Chủ nhiệm đề tài, trong quá trình nghiên cứu, trung tâm đã tuyển chọn những cá thể cá đạt tiêu chuẩn để nuôi vỗ, chế độ chăm sóc, quản lý cá cho phù hợp.

Xác định tỷ lệ thành thục, sự phát triển của tuyến sinh dục; nghiên cứu kích thích sinh sản bằng các liều lượng thuốc kích dục tố khác nhau, phương pháp thụ tinh, phương pháp ấp trứng. Nghiên cứu mật độ, môi trường ương nuôi cá giai đoạn từ bột lên hương, từ hương lên giống.

Hiện Trung tâm đã tiến hành thu thập 260 con cá anh vũ, 250 con cá rầm xanh, 262 con cá chày đất và 279 con cá mỵ.

Cá anh vũ, một trong những giống cá bản địa quý hiếm trên sông Lô. Ảnh: Văn Thưởng.

Cá anh vũ, một trong những giống cá bản địa quý hiếm trên sông Lô. Ảnh: Văn Thưởng.

Sau hơn 3 năm nghiên cứu, các cán bộ của trung tâm đã thu được những kết quả nhất định. Trong đó, việc thực hiện sinh sản nhân tạo trên các loài cá bằng phương pháp thụ tinh khô và ấp trứng trong khay nhựa đạt kết quả cao nhất.

Phương pháp thụ tinh khô của các loài cá đều đật tỷ lệ trên 75% thành công, phương pháp ấp trứng trong khay đạt tỷ lệ hơn 65% trở lên… Các giai đoạn từ bột lên hương, từ hương lên giống đến giai đoạn nuôi thương phẩm thử nghiệm trong các môi trường cũng đã được triển khai và bước đầu thành công.

Ông Nguyễn Anh Tú, Phó Giám đốc Trung tâm Thủy sản Hà Giang cho biết, bên cạnh những mặt đạt được, trong quá trình nghiên cứu còn một tồn tại như: Kết quả nuôi thuần hoá các loài cá rầm xanh, anh vũ, cá mỵ, chày đất cho tỷ sống thấp.

Trong quá trình ương nuôi các loại cá giai đoạn từ bột lên hương, từ hương lên giống mặc dù đã đạt so với mục tiêu đề ra nhưng tỷ lệ sống chưa cao. Nuôi thương phẩm các đối tượng nghiên cứu cho tỷ lệ sống thấp và trọng lượng các loài cá thương phẩm chưa đạt được như mục tiêu đề ra...

Năm 2016, tỉnh Hà Giang thực hiện thả tái tạo nguồn lợi thuỷ sản tại sông Lô là 7.000 con giống cá lăng chấm và 3.000 con giống cá chiên. Năm 2017, tỉnh thực hiện thả tái tạo tại sông Gâm huyện Bắc Mê là 2.000 con giống cá lăng chấm và 1.000 con giống cá chiên...

Việc nghiên cứu nhân giống thành công các giống cá bản địa quý hiếm sẽ mở ra hi vọng nhân rộng tổng đàn các loài cả quý trong môi trường tự nhiên và xa hơn là phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân từ nghề nuôi cá bản địa đặc sản.

Xem thêm
Thiết bị giám sát hành trình mất kết nối nhiều ngày, ngư dân khốn đốn

Thiết bị giám sát hành trình mất kết nối khiến ngư dân như ngồi trên đống lửa. Nhiều chủ tàu cập cảng tại Quảng Trị rơi vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm