Các nhà khoa học cảnh báo rằng Hoa Kỳ một ngày nào đó sẽ trở thành quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch Covid-19. Khoảnh khắc đó đã đến vào hôm thứ Năm.
Số liệu theo dõi của Đại học Johns Hopkins cho thấy, tại Hoa Kỳ, ít nhất có 82.404 trường hợp được xác nhận nhiễm Covid-19, vượt qua Trung Quốc với 81.782 ca và Italia 80.589 ca. Số người tử vong vượt quá 1.209 người.
Thế giới hiện có 529.614 trường hợp được xác nhận nhiễm virus, với 23.976 ca tử vong, tỷ lệ tử vong là 4,5%. Hiện tại ở Mỹ, tỷ lệ tử vong có thể coi ở mức thấp, khoảng 1,4%. Tốc độ lây nhiễm của Hoa Kỳ chậm hơn châu Á và châu Âu vài tuần, và có sự nhất trí rộng rãi giữa các chuyên gia y tế và y tế công cộng rằng mọi thứ (trường hợp nhiễm, số người tử vong) sẽ trở nên tồi tệ hơn nhiều trong những tuần tới.
Với 330 triệu dân, Hoa Kỳ là quốc gia đông dân thứ ba thế giới, có nghĩa là nó cung cấp một lượng lớn người có khả năng mắc Covid-19.
Và đó là một nền dân chủ lớn, ồn ào, nơi các bang tự đặt ra chính sách của mình và Tổng thống Trump đã gửi những thông điệp trái chiều về quy mô của mối nguy hiểm và cách chống lại nó, khiến không tạo ra được một phản ứng thống nhất, ứng phó với mối đe dọa sức khỏe cộng đồng ngày càng nghiêm trọng.
Một loạt các sai lầm và bỏ qua cơ hội đã cản trở phản ứng của Hoa Kỳ.
Trong số đó: không nghiêm túc nhìn nhận mức độ nghiêm trọng của đại dịch ngay cả khi nó đã nhấn chìm Trung Quốc, nỗ lực rất thiếu sót trong cung cấp xét nghiệm rộng rãi khiến Hoa Kỳ không biết mức độ khủng hoảng, và thiếu khẩu trang và thiết bị bảo hộ nghiêm trọng bảo vệ các bác sĩ và y tá ở tuyến đầu, cũng như máy thở để giữ cho bệnh nhân nguy kịch sống sót.
Angela Rasmussen, một chuyên gia vi rút tại Đại học Columbia ở New York nói: “Đại dịch có thể đã được ngăn lại bằng cách thực hiện xét nghiệm và giám sát sớm hơn nhiều - ví dụ, khi các trường hợp nhập cảnh đầu tiên được xác định”. “Nếu đây là những trường hợp đã được chúng ta xác nhận, chúng tavẫn còn thiếu bao nhiêu trường hợp?”.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc tuy đã chậm phản ứng với dịch bệnh bắt đầu ở thành phố Vũ Hán nhưng đã hành động với cường độ dữ dội, cuối cùng đã phong tỏa trong nước. Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc và Nhật Bản nhanh chóng bắt đầu chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất.
Thay vào đó, Hoa Kỳ vẫn bận tâm với việc kinh doanh như thường lệ, Luận tội, Brexit và giải Oscar.
Chỉ có một số chuyên gia nghiên cứu virus nhận ra mối đe dọa của dịch bệnh. Virus này không phải là cúm, nhưng nó có dấu hiệu của bệnh cúm Tây Ban Nha năm 1918: tỷ lệ tử vong tương đối thấp, song không ngừng lây nhiễm.
Chậm thông tin của Trung Quốc cũng khiến cho phương Tây chậm phản ứng và chủ quan. Cho đến nay, Trung Quốc kiềm chế được virus Corona bằng các biện pháp bị phương Tây phê phán là hà khắc. Nhưng mầm bệnh đã bắt đầu một tour du lịch lớn tới hầu hết các quốc gia trên trái đất, với trở nên tàn khốc ở Iran, Italia, Pháp. Nhiều video nổi lên về các nạn nhân gục ngã, các y tá kiệt sức và số lượng quan tài "tràn ngập".
Hoa Kỳ, lẽ ra đã sẵn sàng, thì không làm vậy. Đất nước này có một hệ thống y tế vượt trội được hỗ trợ bởi hàng nghìn tỷ đô la từ các công ty bảo hiểm, Medicare và Medicaid. Quân đội của các bác sĩ ghép tim và chữa ung thư.
Hệ thống y tế công cộng trở nên yếu đuối trước đại dịch.
Không có Lầu Năm Góc sẵn sàng chiến đấu với cuộc chiến về đại dịch này, không có dự thảo Luật thời chiến. Cuối cùng đã có một Lực lượng đặc nhiệm ứng phó virus Corona của Nhà Trắng, nhưng nó lại được lãnh đạo bởi các chính trị gia, không phải các chuyên gia y tế.
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ là một trong những cơ quan kiểm soát bệnh lớn trên thế giới và các bác sĩ của nó đã đóng góp rất lớn trong các cuộc giao tranh chống lại Ebola, Zika và bất kỳ mối đe dọa sức khỏe nào khác.
Nhưng cơ quan đã rút lui vào im lặng, Giám đốc của nó, Tiến sĩ Robert Redfield, gần như vô hình - bị hạ bệ bởi một thất bại trong việc không thực hiện xét nghiệm chẩn đoán cơ bản.
Bây giờ ít nhất 160 triệu người Mỹ đã được lệnh ở nhà tại các bang từ California đến New York. Các trường học đóng cửa, cùng với các quán bar, nhà hàng và nhiều doanh nghiệp khác. Các bệnh viện đang phải ứng phó với số lượng bệnh nhân tăng vọt ở thành phố New York, ngay cả khi nguồn cung cấp thiết bị và thiết bị bảo vệ thiết yếu bị thu hẹp.
Các bệnh viện khác, cộng đồng khác sợ những gì có thể sẽ đến.
Tiến sĩ Sara Keller, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Johns Hopkins Medicine cho biết, “chúng tôi là đã trở thành vùng tâm dịch toàn cầu”.
“Bây giờ, tất cả những gì chúng ta có thể làm là làm chậm việc lây nhiễm càng nhiều càng tốt bằng cách ở yên trong nhà của chúng ta, trong khi, với tư cách là một quốc gia, chúng ta đẩy mạnh sản xuất thiết bị bảo vệ cá nhân, thiết bị cần thiết để xét nghiệm và máy thở”.
Thế giới sẽ không còn như cũ khi đại dịch kết thúc. Ấn Độ có thể vượt qua Hoa Kỳ thành quốc gia có nhiều người chết nhất. Giống như Hoa Kỳ, quốc gia này cũng có một nền dân chủ rộng lớn với sự chia rẽ sâu sắc. Nhưng dân số của nó, 1,3 tỷ người, lớn hơn nhiều, và người dân của họ thậm chí còn đông đúc hơn nữa trong các siêu đô thị.
Trung Quốc vẫn có thể vấp vào một vòng truyền nhiễm mới khi nền kinh tế của họ khởi động lại, và buộc phải làm lại tất cả.
Trong khi đó, với virus đang tự do trên đường phố trong khi hàng triệu người Mỹ đang chui rúc trong nhà, khi nào thì an toàn để ra ngoài và trở lại làm việc?
Tiến sĩ William Schaffner, chuyên gia y tế dự phòng tại Đại học Y khoa Vanderbilt cho biết: “Virus sẽ nói với chúng tôi”.
Khi một đường cơ sở của xét nghiệm hàng ngày được thiết lập trên toàn quốc, tỷ lệ phần trăm xét nghiệm dương tính sẽ giảm cho thấy virus đã tìm thấy càng nhiều vật chủ càng tốt và bắt đầu rút đi.
Theo tiến sĩ Schaffner, số người nhập viện đã đạt đến đỉnh cao rõ ràng và bắt đầu vào trạng thái ổn định, “chúng ta có thể cảm thấy lạc quan”. Và “khi tỉ lệ này giảm xuống, chúng ta có thể bắt đầu mỉm cười”.
Thời điểm đó có thể đến vào mùa hè này. Nhưng ngay khi người đầu tiên của Mỹ bắt đầu mạo hiểm ra ngoài, chúng ta sẽ phải bắt đầu lên kế hoạch cho làn sóng thứ hai.