| Hotline: 0983.970.780

Cây trồng công nghệ sinh học giúp tăng gần 600 triệu tấn nông sản

Thứ Ba 12/09/2017 , 13:35 (GMT+7)

Trường ĐH Quốc tế (thuộc ĐH Quốc gia TP.HCM) vừa tổ chức Hội thảo “Tác động kinh tế - xã hội và môi trường của cây trồng công nghệ sinh học (CNSH) trên toàn cầu. 

15-57-17_cy_trong_cnsh
Ngô chuyển gen ở Xuân Lộc (Đồng Nai)

Tiềm năng, lợi ích cho việc ứng dụng tại Việt Nam”. Những thông tin tại hội thảo cho thấy cây trồng CNHS đã mang lại nhiều lợi ích cho nông dân trên toàn cầu.

Theo TS Graham Brookes (Viện PG Economics, Anh), trong giai đoạn từ 1996 - 2015, việc đưa cây trồng CNSH vào sản xuất đại trà ở nhiều nước trên thế giới đã đem lại những hiệu quả không nhỏ về kinh tế, xã hội.

Cụ thể, cây trồng CNSH giúp giảm được 691 triệu kg thuốc trừ sâu (8,1%) và giảm các tác động tiêu cực tới môi trường khoảng 18,6%. Lượng thuốc trừ sâu giảm được như trên nhiều hơn tổng lượng hoạt chất thuốc trừ sâu mà Trung Quốc sử dụng trên cây trồng trong 1 năm (khoảng 475 triệu kg). Tác động tích cực nhất là từ việc phát triển cây bông kháng sâu bằng kỹ thuật chuyển gen, với lượng thuốc trừ sâu giảm được khoảng 269 triệu kg (giảm 29%) và giảm bớt 31% tác động bất lợi tới môi trường.

Cây trồng CNSH đã có những đóng góp không nhỏ vào việc giảm phát thải khí nhà kính, chủ yếu đến từ 2 yếu tố là nhiên liệu sử dụng ít hơn (phun thuốc ít hơn, làm đất ít hơn) và công nghệ kháng thuốc trừ cỏ cho phép áp dụng phương pháp canh tác không làm đất, qua đó giảm phát thải carbon trong đất. Riêng trong năm 2015, việc giảm nhiên liệu sử dụng (phun thuốc ít hơn) tương đương với giảm 2,8 tỷ kg khí CO2; thực hành phương pháp ít làm đất/không làm đất giúp làm giảm 23,9 tỷ kg CO2 không phát ra từ đất vào môi trường. Tính ra, đã giảm tổng cộng 26,7 tỷ kg CO2 phát thải, tương đương giảm 11,9 triệu xe ô tô lưu thông trên đường.

Cũng trong giai đoạn 1996 - 2015, nhờ ứng dụng cây trồng CNSH mà sản lượng nông sản toàn cầu đã tăng thêm 573,8 triệu tấn. Trong đó, tăng cao nhất là ngô với 357,7 triệu tấn; đậu tương 180,3 triệu tấn; bông 25,2 triệu tấn và 10,8 triệu tấn hạt cải dầu. Nếu không sử dụng giống cây trồng CNSH, để có được sản lượng tăng thêm như trên, phải cần thêm 19,5 triệu ha, tương đương 31% diện tích đất canh tác của Brazil.

Một điều rất quan trọng là cây trồng CNSH đã làm tăng đáng kể thu nhập cho các nông hộ. Trong năm 2015, cây trồng CNSH đã làm tăng thêm 15,5 tỷ USD thu nhập nông hộ. Trong cả giai đoạn 1996 - 2015, cây trồng CNSH làm tăng thu nhập nông hộ trên toàn cầu thêm 167,7 tỷ USD.

Thu nhập nông hộ tăng thêm trong giai đoạn 1996 - 2015 chủ yếu nhờ tăng năng suất và giảm chi phí. Trong đó, 72% (tương đương với 120 tỷ USD) trong mức tăng thêm của thu nhập nông hộ là do tăng năng suất cây trồng, phần còn lại là do chi phí tiết kiệm được. Tăng năng suất cây trồng chủ yếu ở các nước đang phát triển và chủ yếu nhờ sử dụng công nghệ kháng sâu. Mức tăng năng suất trung bình tại tất cả các nước đối với cây ngô là 13,1%; bông 15%; đậu tương 9,3%…

Còn chi phí tiết kiệm được chủ yếu tại các nước phát triển và chủ yếu từ sử dụng công nghệ kháng thuốc trừ cỏ. Bên cạnh đó, công nghệ kháng thuốc trừ cỏ còn tạo điều kiện cho việc thực hành phương pháp canh tác không làm đất, cho phép trồng thêm cây trồng khác (đậu tương) trong cùng 1 vụ tại khu vực Nam Mỹ.

Tại Philippines, từ năm 2002 đã bắt đầu ứng dụng cây ngô chuyển gen kháng sâu, đến năm 2006 ứng dụng cây ngô chuyển gen kháng thuốc trừ cỏ và tổ hợp cả 2 tính trạng.

Năm 2015, cây ngô kháng sâu chiếm 25% diện tích và cây ngô kháng thuốc trừ cỏ là 27% diện tích. Thực tế sản xuất cho thấy cây ngô kháng sâu giúp tăng năng suất 18%, cây ngô kháng thuốc trừ cỏ tăng năng suất 5%; thu nhập nông hộ trồng cây ngô kháng sâu tăng thêm 115 USD/ha, trồng cây ngô kháng thuốc trừ cỏ tăng thêm 32 USD/ha.

Trong năm 2015, nhờ cây trồng CNSH, sản lượng ngô Philippines đã tăng thêm được 424.000 tấn; tổng thu nhập nông hộ tăng thêm trong giai đoạn 2002 - 2015 là 642 triệu USD.

 

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Mùa vàng trên cánh đồng sạ cụm

QUẢNG BÌNH Mô hình gieo sạ lúa bằng máy tại Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Hàm Hòa trong vụ đông xuân 2023 - 2024 với diện tích trên 10ha cho hiệu quả lớn…

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm