| Hotline: 0983.970.780

Kỳ vọng đột phá khoa học công nghệ: [Bài 4] Cởi trói cơ chế tài chính

Thứ Sáu 21/03/2025 , 08:32 (GMT+7)

Những chính sách, cơ chế mới theo các nghị quyết của Bộ Chính trị và Quốc hội sẽ cởi trói về cơ chế tài chính trong nghiên cứu khoa học.

Thiếu chấp nhận rủi ro, giảm động lực nghiên cứu

PGS.TS Võ Văn Nha, Viện trưởng Viện nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III nhìn nhận, công tác nghiên cứu khoa học thời gian qua còn vướng một số rào cản, bất cập.

PGS.TS Võ Văn Nha. Ảnh: KS.

PGS.TS Võ Văn Nha. Ảnh: KS.

Bài liên quan

Thứ nhất, thiếu chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu. Các đề tài nghiên cứu khoa học lâu nay thường yêu cầu kết quả chắc chắn, theo thuyết minh đã được duyệt trước, dẫn đến cứng nhắc, không chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu. Do vậy khi nghiệm thu, đánh giá kết quả triển khai phải tuân thủ theo thuyết minh đề cương đã được duyệt trước, dễ dẫn đến các nhà khoa học bị vi phạm hợp đồng, chịu trách nhiệm bồi thường, kể cả khi thay đổi cách tiếp cận mới (khác so với thuyết minh ban đầu) để tạo ra kết quả tương tự, thậm chí dễ áp dụng hơn. Điều này làm hạn chế những sáng tạo, những thử nghiệm các ý tưởng mới trong quá trình triển khai. Đôi khi, các thử nghiệm, sáng tạo mới đó có thể trở thành những kết quả nghiên cứu quan trọng.

Thứ hai, hạn chế trong cơ chế tài chính: Việc cấp kinh phí nghiên cứu thường nhiều thủ tục, phức tạp. Kinh phí được cấp theo kế hoạch năm, thiếu linh hoạt để điều chỉnh theo tiến độ thực tế. Nguồn kinh phí phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, chưa thực sự thu hút nguồn tài trợ, đối ứng. Thủ tục thanh quyết toán phức tạp, mất nhiều thời gian. Thanh toán theo hoá đơn, chứng từ đôi khi chưa được phù hợp với đặc thù của các hoạt động nghiên cứu ứng dụng.

Bên cạnh đó, lương và thu nhập người tạo ra sản phẩm khoa học chưa tương xướng với công sức và trí tuệ bỏ ra. Quy trình định giá tài sản trí tuệ từ kết quả nghiên cứu khoa học có nhiều vướng mắc, gây khó trong chuyển giao, thương mại hoá kết quả nghiên cứu… Những hạn chế này làm giảm động lực và hiệu quả của nghiên cứu khoa học.

Các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III nghiên cứu lĩnh vực thủy sản. Ảnh: KS.

Các nhà khoa học của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III nghiên cứu lĩnh vực thủy sản. Ảnh: KS.

Bài liên quan

Thứ ba, quyền sở hữu trí tuệ chưa rõ ràng: Việc quản lý và sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học còn nhiều bất cập thể hiện ở việc chưa phân định rõ quyền sở hữu giữa nhà nước, tổ chức và cá nhân nghiên cứu. Cơ chế chuyển giao, khai thác và chia sẻ lợi ích tài sản trí tuệ chưa hợp lý, nhà khoa học thường không được hưởng lợi xứng đáng từ kết quả nghiên cứu… nên thiếu động lực sáng tạo. Những bất cập này làm giảm hiệu quả nghiên cứu khoa học công nghệ (KHCN), hạn chế khả năng thương mại hoá và ứng dụng rộng rãi các sản phẩm KHCN tạo ra.    

Ngoài ra, các bất cập khác cũng góp phần cản trở sự phát triển của nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo trong nuôi trồng thủy sản, đặc biệt ở miền Trung, Tây Nguyên như: Thiếu sự gắn kết giữa nghiên cứu và thực tiễn sản xuất; hạn chế về hạ tầng nghiên cứu và điều kiện thử nghiệm; thiếu nhân lực trong các lĩnh vực ứng dụng công nghệ cao như IoT, AI, blockchain trong nuôi trồng thủy sản; thiếu chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và cuối cùng là chưa có hệ sinh thái dữ liệu trong nuôi trồng thủy sản.

Với những rào cản, bất cập đó, đặc biệt là hạn chế những sáng tạo, những thử nghiệm các ý tưởng mới trong quá trình triển khai nghiên cứu, đã làm giảm động lực và hiệu quả của nghiên cứu khoa học, hạn chế khả năng thương mại hoá và ứng dụng rộng rãi các sản phẩm KHCN tạo ra, cần được cởi trói về chính sách, cơ chế để thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao và đổi mới sáng tạo.

Cởi trói cơ chế tài chính, tạo động lực sáng tạo

Bài liên quan

Những chính sách, cơ chế mới theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết 193/2025/QH15 ngày 19/02/2025 của Quốc hội sẽ cởi trói về cơ chế tài chính trong nghiên cứu khoa học. Nghị quyết cho phép cấp kinh phí nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo cơ chế quỹ, giúp tự chủ trong phân bổ và sử dụng kinh phí. Minh bạch trong việc cấp kinh phí; khuyến khích nguồn tài trợ đa dạng, giảm bớt thủ tục hành chính và tăng tính chủ động cho các nhà khoa học; tăng cường trách nhiệm giải trình và đánh giá kết quả. Từ đó tạo động lực sáng tạo và giảm gánh nặng thủ tục hành chính cho các nhà khoa học, là bước tiến quan trọng để thúc đẩy nghiên cứu khoa học theo hướng chất lượng, ứng dụng thực tiễn và hội nhập quốc tế. Cụ thể:

Nghị quyết 193/2025/QH15 của Quốc hội sẽ cởi trói về cơ chế tài chính cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Ảnh: KS.

Nghị quyết 193/2025/QH15 của Quốc hội sẽ cởi trói về cơ chế tài chính cho lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Ảnh: KS.

- Chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu: Nghị quyết thừa nhận và chấp nhận rủi ro trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đã công nhận tính đặc thù của nghiên cứu khoa học, giúp giảm áp lực thành công tuyệt đối cho các nhà khoa học. Khuyến khích thử nghiệm, đổi mới sáng tạo. Có chính sách bảo vệ nhà khoa học khi đề tài, dự án không đạt kết quả như mong muốn. Cơ chế đánh giá kết quả nghiên cứu linh hoạt, không máy móc, không chỉ dựa vào thành công thương mại.

Như vậy, Nghị quyết này giúp xây dựng môi trường nghiên cứu cởi mở, khuyến khích sáng tạo, thử nghiệm và chấp nhận rủi ro thay vì chỉ tập trung vào các kết quả chắc chắn. Điều này sẽ giúp cởi trói và có thể phát triển những công nghệ đột phá trong tương lai. 

- Quyền sở hữu trí tuệ rõ ràng: Nghị quyết quy định về quyền sở hữu, quản lý, sử dụng đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, tài sản trang bị để thực hiện nhiệm vụ KHCN, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thương mại hóa và ứng dụng kết quả nghiên cứu.

Ngoài ra, Nghị quyết còn có thể mở ra các chính sách ưu đãi thuế và tín dụng cho doanh nghiệp, hợp tác xã và cá nhân tham gia nghiên cứu. Cho phép cơ chế đặt hàng nghiên cứu, trong đó doanh nghiệp, địa phương có thể trực tiếp đặt hàng các viện nghiên cứu, rút ngắn quy trình từ nghiên cứu đến ứng dụng thực tiễn, tạo môi trường thuận lợi cho nghiên cứu. Phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo thông qua việc hỗ trợ các viện, trung tâm nghiên cứu, vườn ươm công nghệ để thử nghiệm và hoàn thiện công nghệ trước khi thương mại hóa, hình thành mạng lưới kết nối giữa nhà khoa học – doanh nghiệp – người nuôi trồng, giúp nghiên cứu không chỉ nằm trên giấy mà thực sự được ứng dụng vào sản xuất.

Đẩy mạnh chuyển đổi số trong nghiên cứu và sản xuất, thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu số về. Hỗ trợ các viện, doanh nghiệp nghiên cứu ứng dụng AI, IoT, blockchain vào giám sát môi trường nước, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tối ưu hóa chuỗi cung ứng, phát triển hệ thống bản đồ số, giúp tránh chồng lấn hoặc khai thác quá mức nguồn tài nguyên nước. Thúc đẩy hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ thông qua việc tạo cơ chế linh hoạt hơn trong việc mời chuyên gia quốc tế, tiếp nhận tài trợ để nâng cao chất lượng nghiên cứu…

Phát huy trách nhiệm nhà khoa học

Để phát huy những chính sách mới, nhà khoa học phải tích cực tham gia các chương trình nghiên cứu. Chủ động đề xuất và tham gia các đề tài, dự án nghiên cứu KHCN, tận dụng cơ chế tài chính linh hoạt để triển khai các ý tưởng mới. Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước để chia sẻ kinh nghiệm, nguồn lực và mở rộng phạm vi ứng dụng kết quả nghiên cứu. Tập trung đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ nghiên cứu, đặc biệt trong lĩnh vực chuyển đổi số và công nghệ mới.

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đang hỗ trợ các địa phương thúc đẩy phát triển nuôi biển. Ảnh: KS.

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III đang hỗ trợ các địa phương thúc đẩy phát triển nuôi biển. Ảnh: KS.

Về công tác nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III, ngoài đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy gọn nhẹ, hiệu quả và đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ KHCN, thời gian tới Viện sẽ tập trung nghiên cứu vào các lĩnh vực mũi nhọn, có tiềm năng ứng dụng cao, phù hợp với nhu cầu thực tiễn của khu vực. Mở rộng nghiên cứu những đối tượng nuôi quan trọng, trong đó tập trung nhóm đối tượng phục vụ chiến lược nuôi biển của quốc gia (cá biển, tôm, rong biển, nhuyễn thể). Bên cạnh đó, Viện cũng phát triển một số đối tượng nuôi tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên (cá nước lạnh).

Đồng thời ứng dụng công nghệ số, áp dụng công nghệ mới, tăng cường công tác bảo vệ môi trường, phòng chống dịch bệnh trên các đối tượng thuỷ sản nuôi. Triển khai nghiên cứu các đề tài, dự án chuyển đổi số trong quản lý và nghiên cứu, áp dụng công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả và chất lượng công việc.

Tập trung nghiên cứu, áp dụng và phát triển các mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững, thân thiện với môi trường, đảm bảo phát triển bền vững và bảo vệ hệ sinh thái. Mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức nghiên cứu quốc tế, tham gia các dự án hợp tác để nâng cao trình độ và mở rộng phạm vi nghiên cứu. Hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và cùng với địa phương áp dụng các tiến bộ khoa học vào sản xuất; nghiên cứu, hợp tác chuyển giao công nghệ, đưa sản phẩm khoa học công nghệ đi vào cuộc sống.

Phương Chi - Kim Sơ (ghi).

 

Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III

Xem thêm
Sau tinh gọn bộ máy, ứng dụng công nghệ là giải pháp bắt buộc

HÀ NỘI Khi số lượng giảm do tinh gọn, địa bàn quản lý rộng hơn, ứng dụng công nghệ trở thành giải pháp bắt buộc đối với đội ngũ cán bộ chăn nuôi, thú y địa phương.

Chấn chỉnh tư duy khoán trắng công tác phòng dịch cho lực lượng thú y

QUẢNG NINH Quảng Ninh yêu cầu các địa phương chấn chỉnh chính quyền xã nếu thiếu quan tâm, chỉ đạo, có tư tưởng khoán trắng cho lực lượng thú y khi phòng, chống dịch bệnh động vật.

Trồng 'cây tỉ đô', vừa có tiền, vừa có rừng

THANH HÓA Nhờ áp dụng phương pháp canh tác thuận tự nhiên, vườn mắc ca của HTX Sản xuất mắc ca Thành Phát phát triển rất khỏe, cho năng suất cao.

Sản xuất lúa ‘3 giảm 3 tăng’, lợi nhuận tăng 8 triệu đồng/ha

BÌNH ĐỊNH Mô hình canh tác lúa theo hướng giảm chi phí đầu vào tại một số tỉnh Nam Trung bộ giảm được chi phí sản xuất 15%, lợi nhuận tăng hơn 8 triệu đồng/ha.

Doanh nghiệp là hạt nhân phát triển nông nghiệp công nghệ cao

Ninh Thuận Những năm qua, với nhiều chính sách ưu đãi cùng khí hậu rất thích hợp phát triển nông nghiệp công nghệ cao nên hàng loạt doanh nghiệp đã đầu tư vào tỉnh Ninh Thuận.

Tương lai cho nghề cá bền vững: [Bài 2] Tái cơ cấu đội tàu cá

QUẢNG NINH Giảm đội tàu khai thác gần bờ, phát huy hiệu quả đội tàu khai thác vùng lộng, vùng khơi chính là hướng đi đúng đắn để đưa nghề cá phát triển bền vững.

Khó khăn trong cấp chứng chỉ rừng FSC tại Yên Bái: [Bài 3] Làm gì để nông dân yên tâm sản xuất?

Tỉnh Yên Bái yêu cầu các công ty bao tiêu sản phẩm gỗ được cấp chứng chỉ FSC để người dân yên tâm tham gia chương trình và tránh thiệt hại vốn của doanh nghiệp.