Lịch sử như gió cuốn, bao nhiêu thịnh suy cũng an bài, bao nhiêu thăng trầm cũng mờ mịt. Thứ còn lại bền vững nhất, chính là tinh thần và ý chí của mỗi dân tộc. Người Việt từ thời các vua Hùng dựng nước đến nay, đã nếm trải trăm ngàn sóng gió nghiệt ngã, nhưng mỗi tên đất, mỗi tên làng vẫn tồn tại kiêu hãnh và gợi nhớ.
Sức mạnh cội nguồn, không thể nói khác hơn, sức mạnh cội nguồi đã giúp người Việt đứng vững trước phong ba mà giữ nước. Hai Bà Trưng gửi một truyền thuyết theo dòng Hát Giang, Triệu Thị Trinh tuẫn tiết trên núi Tùng, còn để lại câu nói đầy nghĩa khí của bậc nữ lưu hào kiệt: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”.
Người Việt lớn lên bằng những phẩm giá đẹp như huyền thoại. Lý Nam Đế để lại quốc hiệu Vạn Xuân, Triệu Việt Vương lưu danh đầm Dạ Trạch, tên tuổi Mai Hắc Đế vang dội khởi nghĩa Hoan Châu. Ngàn năm Bắc thuộc cũng chấm dứt, Ngô Quyền khẳng định “sông núi nước Nam vua Nam ở”, Đinh Bộ Lĩnh phất cờ lau nên nghiệp lớn.
Dòng máu Lạc Hồng cứ trao truyền nồng ấm trong huyết quản từng thế hệ. Mỗi gian đoạn khốn quẫn lại xuất hiện một danh nhân kế thừa và phát huy giá trị người Việt. Lê Đại Hành, Lý Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ... nối tiếp nhau bồi đắp nghĩa khí non sông. Thái độ tự lập và tự cường của người Việt được Nguyễn Trãi đúc kết trong “Bình Ngô đại cáo” lẫm liệt: “Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi/ Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối” để hướng đến mục đích cao cả: “Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu/ Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.
Thời đại Hồ Chí Minh đã mở ra một chương mới cho nòi giống Tiên Rồng. Người Việt lần lượt vượt qua đạn bom và gian khổ, chiến thắng giặc đói và giặc đói. Người Việt can đảm tranh đấu cho tự do. Người Việt ngoan cường tranh đấu cho hòa bình. Người Việt kiên định tranh đấu cho hạnh phúc. Một dải sơn hà gấm vóc theo chân người Việt vào cuộc hội nhập toàn cầu, làm bạn với thế giới và góp sức với nhân loại.
Vươn lên cùng thời gian, người Việt cũng gặp không ít nghẹn ngào và cay đắng. Thế nhưng, sự chịu đựng và sự bền bỉ của người Việt vẫn khắc phục mọi trở ngại, mọi vất vả. Sức mạnh tiềm tàm và sôi sục trong mỗi người Việt, luôn là câu chuyện đầy bí ẩn với những nhà nghiên cứu quốc tế. Thế nhưng, mỗi người Việt đều biết rõ, chúng ta có thể chân cứng đá mềm đi về phía trước, vì chúng ta có cội nguồn thiêng liêng để nương tựa, để thúc giục. Người Việt bước cạnh nhau, người Việt sánh vai nhau, người Việt dìu dắt nhau bằng sợi dây ràng buộc kỳ diệu của phúc lộc tổ tiên. Chúng ta bay theo đường dân tộc đang bay!
Bụi tre thần thoại mà Tháng Gióng từng dùng đánh đuổi ngoại xâm, tiếp tục nảy nở màu xanh khắp dải đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương. Cây tre bám rễ sâu, cây tre vươn cành thẳng, cây tre đón nắng hè, cây tre hứng mưa đông... một cách ung dung và gần gũi. Cây tre cho bóng mát, cây tre che xóm làng, cây tre giữ biên ải. Và cây tre trở thành bản sắc ngoại giao của người Việt, mềm mại, uyển chuyển mà vẫn bất khuất, hiên ngang.
4000 năm ròng rã trôi qua, mồ hôi và nước mắt của người Việt càng nhuộm thắm thêm màu cờ Tổ quốc. Chúng ta đã đi qua chiến tranh, chúng ta đã đi qua cơ hàn, chúng ta đã đi qua túng bấn, chúng ta đã đi qua lạnh lẽo... để mỗi dòng sông được chở nặng phù sa bất tận. Sông Lô dạt dào, sông Hồng nồng ấm, sông Mã náo nức, sông Lam bịn rịn, sông Hương êm đềm, sông Tiền hối hả, sông Hậu bâng khuâng... Mỗi con nước chảy xuôi đều réo gọi mùa màng, réo gọi no đủ, réo gọi thịnh vượng, réo gọi sum vầy, réo gọi yêu thương. Những dòng sông nhẫn nại từng ngày đưa người Việt ra biển lớn, đương đầu với thách thức mới bằng tất cả sự tự tin của những cánh buồm lồng lộng khát vọng khơi xa.
Người Việt hôm nay đang chứng minh một bản lĩnh khác. Bản lĩnh của những bàn tay cặm cụi và lương thiện. Bản lĩnh của những bộ óc cẩn trọng và sáng tạo. Bản lĩnh của những trái tim chắt chiu và san sẻ. Người Việt hướng về Đền Hùng mà thành một khối đoàn kết vững chắc. Câu chuyện trăm trứng nở trăm con đã từng ngày vén đám mây hư ảo huyền sử để đi vào đời thực chan hòa, người Kinh ôm lấy người Tày, người Chăm lưu luyến người Mông, người Ê Đê an ủi người Xơ Đăng, người Nùng đùm bọc người Dao, người Mạ hỏi thăm người Mường, người S’Tiêng đưa đón người Chu Ru, người Khơ Me nhắn nhủ người Khơ Mú... Tất cả 54 dân tộc anh em cùng nhau chia sớt ngọt bùi, cùng nhau xây dựng tương lai. Tất cả 54 dân tộc anh em lắng nghe tiếng hò reo của nhau thật rộ ràng, lắng nghe tiếng ca hát của nhau thật nồng nàn, và lắng nghe tiếng thở dài của nhau cũng thật ân cần.
Người Việt thế kỷ 21 không còn rụt rè và co cụm. Những rẫy cà phê bạt ngàn ở núi đồi Tây Nguyên, những vựa thủy sản nhộn nhịp ở duyên hải miền Trung, những vườn trái cây xum xuê ở đồng bằng sông Cửu Long... đã và đang đưa những đặc sản của người Việt lan tỏa khắp năm châu. Người Việt không chỉ gieo hạt thóc xuống cánh đồng mà còn gieo nhân ái vào lòng mình, để gặt hái ngày mai tốt đẹp hơn.
Với xu thế hội nhập toàn cầu, người Việt mang hình bóng quê hương trên mỗi hành trình học tập và lao động. Tiếng Việt theo người Việt đến châu Âu, đến châu Mỹ, đến châu Phi... để mỗi âm thanh trong lành lại réo rắt từng giai điệu của bến đò cũ, của mái đình xưa, của ngôi nhà thơ ấu. Người Việt dẫu tha phương vẫn là một bộ phận không thể tách rời của người Việt. Không sao xóa nhòa được những hình bóng quê hương, người Việt ở Canada nhìn cây phong đỏ lại nhớ cây cọ xanh Phú Thọ, người Việt ở Nga nhìn hàng bạch dương lại nhớ rặng dừa yên ả Bến Tre... Người Việt ra đi để tích lũy vốn liếng và tri thức mà quay lại phụng sự đất nước, với rất nhiều dự án, rất nhiều công trình đang được triển khai từ Bắc chí Nam.
Vị trí Việt Nam trên bản đồ thế giới vẫn còn khá khiêm tốn. Người Việt hiểu điều ấy và người Việt đang nỗ lực để sung túc và giàu mạnh. Người Việt dự phần với năm châu bằng thái độ cởi mở và chân thành. Người Việt cầu thị và cầu tiến, dự phần với nhân loại theo phương pháp tích cực nhất. Người Việt tự nguyện hòa nhập nhưng chấp nhận hòa tan, bởi bản sắc văn hóa của người Việt đã được hun đúc từ ngàn năm với những nét độc đáo không dễ phai mờ.
“Dù ai đi ngược về xuôi, nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”, câu ca dao ấy vẫn theo chân người Việt khắp nơi. Người Việt tự hào về nguồn cội và người Việt chăm lo cho nguồn cội. Khói hương ở Đền Hùng không phải được thắp một buổi hay thắp một ngày, mà khói hương Đền Hùng lúc nào cũng được thắp trong tâm khản mỗi người Việt, như những lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm: “Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng/ Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ Yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu chuyện mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.