| Hotline: 0983.970.780

Chuyển đổi 112.000 ha đất trồng lúa: Nhìn từ vựa lúa quốc gia

Thứ Năm 05/06/2014 , 08:15 (GMT+7)

Thành công trong quá khứ, không phải là một đảm bảo chắc chắn cho thành công trong tương lai. “Vựa lúa gạo quốc gia” đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới./ Chuyển đổi đất lúa ở ĐBSCL: Cần thận trọng

Nông dân trồng lúa ĐBSCL “được giao” trọng trách “đảm bảo an ninh lương thực quốc gia”. Họ không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ nuôi sống cả dân tộc mà còn đưa VN từ nước thiếu đói ở thập niên 80 thế kỷ trước thành một cường quốc XK gạo.

Năng suất và sản lượng lúa gạo của ĐBSCL đã liên tục tăng trưởng nhanh. Những thành công đó không chỉ góp phần quan trọng ổn định xã hội, tạo nền tảng vững chắc phát triển nông thôn mà còn “cứu nguy” cho kinh tế đất nước ở những giai đoạn khó khăn.

Phía sau vựa lúa quốc gia

Nhưng đó là kỳ tích đã qua. Thành công trong quá khứ, không phải là một đảm bảo chắc chắn cho thành công trong tương lai. “Vựa lúa gạo quốc gia” đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Thách thức không chỉ là mối đe doạ do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, mà trực tiếp là do kết nối cung - cầu nông sản yếu kém; người trồng lúa ngày càng nghèo đi, tạo ra bất công trong phân công lao động.

Thách thức của SX lúa gạo ngày nay không còn là tình trạng đói ăn - “suy dinh dưỡng” của thời trước mà là “bệnh béo phì” do dư thừa, cũng nguy hiểm không kém. SX lúa gạo nhiều hơn không còn là mục tiêu hàng đầu, mà việc tạo ra nhiều giá trị hơn để nông dân làm giàu, cần được xem là ưu tiên.

Vì vậy, chuyển một phần đất trồng lúa sang cây trồng khác có hiệu quả hơn là một chủ trương hoàn toàn đúng. Nhưng phải đặt yêu cầu này trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống cư dân nông thôn.

Cuộc chuyển đổi lớn

Những năm qua, các địa phương trong vùng ĐBSCL đã từng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo được những mô hình thành công như “con tôm ôm cây lúa”, chuyển đổi 3 vụ lúa sang 2 vụ lúa, 1 vụ màu; nhưng giới hạn trong điều kiện cụ thể của từng nơi.

“Vựa lúa quốc gia” đã từng chuyển trồng lúa sang trồng đậu nành, bông vải, mè, nuôi bò sữa... nhưng không thành công vì thiếu giải pháp đồng bộ. Việc “chuyển đổi” là cần thiết, nhưng phải trên cơ sở kết quả rà soát quy hoạch, phân công, phân vai trong liên kết vùng, tạo giống mới cạnh tranh, tổ chức SX, đặc biệt là đảm bảo thị trường tiêu thụ và phải liên kết vùng.

“Một trong những nguyên nhân là động lực mà những cải cách trước đây tạo ra đã không còn đủ mạnh để thúc đẩy phát triển. Đây là lúc chúng ta cần có thêm động lực để lấy lại đà tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Nguồn động lực đó phải đến từ Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân” (Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng - Thông điệp đầu năm 2014).

Vội vã chuyển trồng lúa sang đậu nành, rau màu hay cây trồng khác chỉ vì lúa gạo đang gặp khó là cách làm không căn cơ. Cần phải thấy rằng, việc đầu tư cho việc chuyển dịch này, nông dân cần vốn nhiều hơn, kỹ thuật canh tác tốt hơn, giống nào để giá đậu nành trong nước đủ sức cạnh tranh, người ta không nhập đậu nành để SX thức ăn chăn nuôi, thủy sản như hiện nay?

Các vấn đề đất đai, KHKT cho SX hàng hoá lớn đang cần những sửa đổi cực kỳ mạnh dạn để chuyển đổi nông nghiệp sang một mô hình khác, chứ cứ lắt nhắt một ít chính sách hỗ trợ vốn, một vài dự án hỗ trợ KHKT... có tính đối phó, "theo đuôi" như vừa qua, hay chỉ chăm bẵm vào việc chuyển đổi đất trồng lúa sang cây trồng khác, thì rõ ràng không ăn thua.

Việc chuyển 112.000 đất trồng lúa sang cây trồng khác có hiệu quả hơn không phải là phép cộng đơn giản của từng mảnh đất ở các địa phương. Càng không thể là câu trả lời cho việc chọn cây đậu nành, bắp hay cây trồng nào khác theo suy nghĩ kiểu cũ - dựa vào “nguồn cung”, quên đi “hướng cầu”; mà phải bắt đầu từ “đổi mới tư duy làm nông nghiệp”.

Một cách tiếp cận “làm như mọi khi” chắc chắn sẽ không hiệu quả trước yêu cầu và thách thức mới. Hơn cả việc chuyển đổi đất trồng lúa phải là cuộc lột xác thật sự. Nó phải được tiến hành bằng tư duy, từ chính những thế mạnh và yếu kém nội tại của ngành trồng trọt và nền nông nghiệp.

Nó phải là quá trình hiện đại hóa ngành trồng trọt và xây dựng nông thôn mới, giúp hàng chục triệu nông dân ĐBSCL vượt qua thách thức, trở thành “doanh nhân nông nghiệp”, làm giàu được bằng nghề nông.

Tái cơ cấu nông nghiệp là một quá trình phức tạp, khó khăn và lâu dài, cần được thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm để điều chỉnh phù hợp với thực tế trên cơ sở xây dựng một hệ thống giám sát, đánh giá và tham vấn thông tin phản hồi từ các bên liên quan. Việc chuyển đổi đất trồng lúa chỉ là một bước đi trong quá trình đó.

Vì vậy, đòi hỏi không chỉ là “sự chuyển đổi lớn” của ngành nông nghiệp từ trung ương đến địa phương, mà cần sự tham gia mang tính quyết định của nông dân và doanh nghiệp. Người nông dân phải ở vị trí trung tâm và vai trò chủ thể để thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.

Việc “chuyển đổi” là cần thiết, nhưng phải trên cơ sở kết quả rà soát qui hoạch, phân công, phân vai trong liên kết vùng, tạo giống mới cạnh tranh, mô hình tổ chức SX và kinh doanh phù hợp hơn hiện nay. Nó rất cần tư duy hoạch định cơ chế, chính sách đất đai, làm nông nghiệp, tổ chức SX.

(Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ)

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm