| Hotline: 0983.970.780

Dòng chảy ngầm tằm tơ!

Thứ Năm 03/07/2008 , 08:00 (GMT+7)

Sau bao thăng trầm, có giai đoạn tưởng chừng như không thể tồn tại, thị trường bị “đóng băng” còn nghề tằm bị ruồng rẫy, hầu như không có bất kỳ đầu tư gì, nghề cổ truyền ấy vẫn sống như một mạch ngầm, âm thầm mà mạnh mẽ…

Bài 1: Lặng lẽ nghề tằm!

Nuôi tằm là nghề truyền thống ở Việt Nam cả trăm năm, cả ngàn năm nay nhưng có lẽ cũng chưa bao giờ nghề này lại phải trải qua “cuộc bể dâu”, thăng trầm lớn như chục năm gần đây. Đã có lúc, thị trường xuất khẩu bế tắc, nhà máy ươm tơ đóng cửa, các trại tằm đình trệ, người nuôi tằm đua nhau đốn dâu, một số địa phương đã coi việc loại bỏ nghề tằm tơ nhanh như một… thành tích. Con tằm bị ruồng rẫy, bị bỏ rơi khiến cho cây dâu cũng chịu hệ luỵ. Cùng là cây trồng nhưng cây ngô, cây lúa, cây đậu… được khuyến khích, được bao ưu đãi, bao chương trình khuyến nông còn cây dâu thì không, thậm chí còn bị chính quyền cơ sở ngầm đồng ý cho phá bỏ.

Về phía vĩ mô, chiến lược thị trường, chiến lược mặt hàng trong toàn ngành và quản lý điều hành còn lúng túng. Quản lý nhà nước trên các mặt: quy hoạch, kế hoạch; giá và chất lượng sản phẩm; quản lý sản xuất và cung ứng giống tằm yếu dẫn đến không hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh…

Trồng dâu nuôi tằm ở Nguyên Hòa

Không còn sự quan tâm nên vấn đề hàng đầu là giống tằm năng suất, chất lượng cao cũng bị bỏ ngỏ. Nạn nhập lậu trứng tằm của Trung Quốc tràn lan, không kiểm soát nổi chất lượng cũng như dịch bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất kén. Thêm vào đó, việc thâm canh, áp dụng quy trình kỹ thuật của nông dân còn thấp; các tiến bộ kỹ thuật về giống dâu, giống tằm, công nghệ ươm tơ chậm được phổ biến và nhân rộng; đầu tư sản xuất còn hạn chế; thiết bị chế biến tơ cũ kỹ, lạc hậu; công nghệ dệt và sau dệt đi sau thế giới cả vài chục năm… đã khiến cho có lúc tưởng như con tằm đã thực sự ở vào thế tuyệt diệt.

Thế nhưng, trước bao biến cố to lớn ấy nghề này vẫn tồn tại và dần dần hồi phục. Cả nước đã hình thành những vùng dâu có diện tích lớn, sản lượng kén cao như: Sơn La, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, nam khu Bốn cũ, Lâm Đồng. Tất nhiên so với thời kỳ cực thịnh thì không bằng (năm 1995, cả nước có 38.000 ha dâu, sản xuất khoảng 26.000 tấn kén, ươm 2.500 tấn tơ, bình quân 700 kg kén/ha. Hiện nay, diện tích dâu chỉ còn 21.000 ha, sản xuất 21.000 tấn kén, ươm 2.100 tấn tơ. Năng suất kén bình quân đạt 1.000 kg/ha) nhưng như thế đã có thể thấy sức sống của nghề rất bền bỉ. Sở dĩ có được điều ấy vì trong nông nghiệp, không một vật nuôi nào có chu kỳ từ sản xuất đến thu hoạch lại nhanh như nuôi tằm, chỉ khoảng trên 20 ngày là đã có tiền “tươi”.

Cây dâu lại là cây thuộc loại chịu nết của con nhà nghèo, không hề kén đất, không tranh chấp diện tích với cây trồng khác. Mức đầu tư cho trồng dâu nuôi tằm không nhiều (thậm chí có thể nói là thấp hơn hẳn so với một số ngành nghề khác như trồng cà phê, chè, tiêu...) nhưng mang lại hiệu quả kinh tế khá mà lại bền vững nhất vì rất ít khi phải sử dụng thuốc BVTV. Nuôi tằm không quá phức tạp, lao động ở đủ mọi lứa tuổi và trình độ văn hóa đều có thể tham gia. Hơn thế, sau sự cố vùng Vịnh, thị trường tiêu thụ sản phẩm tơ tằm trong nước và thế giới dần ổn định, giá tơ, kén và các sản phẩm phụ liên tục tăng cao nhất là từ 2003 đến nay. Giá trị xuất khẩu toàn ngành của Việt Nam ước đạt 160-200 triệu USD/năm- đặc biệt thị trường tơ, lụa trong nước đang tăng (khoảng 1,2 – 1,5 triệu mét/năm).

Tôi xuôi sông Luộc về Nguyên Hoà (Phù Cừ, Hưng Yên) để tìm hiểu về nghề tằm tơ nơi đây. Gắn bó với nghề nên ông Phạm Văn Tuyên-Chủ nhiệm HTX hiểu rõ những chìm nổi của tằm tơ ở địa phương. Hai chục năm trước, hồi ông đi bộ đội về, khi ấy nghề nuôi tằm ở xã đã bắt đầu phát triển dù dân khi đó chỉ quen trồng loại “dâu chân vịt”. Hai thôn La Tiến và Thị Giang hồi đó có hơn 100 mẫu dâu, nhà nhà nuôi tằm, người người nuôi tằm và sống được cũng nhờ tằm.

Đùng cái, thị trường tơ bị tắc, giá kén xuống thảm hại, người ta đổ xô phá dâu trồng ngô trồng đậu đến nỗi năm 1996 ở Nguyên Hoà còn sót lại có 5 mẫu dâu. Giờ thì mọi sự đã khác, thôn La Tiến có 436 hộ thì cỡ 300 hộ nuôi tằm với tổng diện tích dâu cỡ 100 mẫu. Ông chủ nhiệm bảo nếu nuôi được thì không gì hiệu quả bằng con tằm. Ngô, đỗ trồng ở vùng bãi thu hoạch rất bấp bênh vì lo nước ngập nhưng dâu ngập nước cả tháng vẫn vô tư. Trồng dâu đầu tư rất ít, từ cả thuốc BVTV đến phân bón so với các loại cây trồng khác. Hơn thế, dâu cũng không bị chuột phá nên khỏi lo mất mùa…

Giống dâu bây giờ cũng không còn là “dâu chân vịt” mà là dâu cao sản. Cung cách nuôi tằm giờ cũng khác xưa nhiều. Trước người nuôi phải chăm từ khi trứng nở đến khi tằm chín, lên né thì nay được chuyên môn hoá. Làng La Tiến giờ đây thành lập cả tổ nuôi tằm con gồm ba người có kinh nghiệm, nuôi toàn bộ số tằm con cho nhiều hộ khác đến khi khoảng 10 ngày tuổi thì chuyển giao. Các hộ nuôi tằm con được hưởng phần trăm theo tỷ lệ thoả thuận, thường mỗi vòng trứng được 25.000 đồng với điều kiện phải đảm bảo trên 60% hộ nhận nuôi tằm con nhà mình phải thắng lợi.

Chính bởi điều ràng buộc quyền lợi đó nên liên tục đi đôn đốc các hộ khác trong tổ về mặt kỹ thuật. Việc nuôi tằm dưới dạng phân công giai đoạn này vừa đỡ tốn công sức lại hạn chế tối đa rủi ro bởi tằm từ 10 ngày tuổi nuôi khá dễ. Một điều khác nữa là nuôi tằm bây giờ còn có nhiều yếu tố kỹ thuật mới như giống mới GQ 2218 chống chịu nóng tốt, chất lượng tơ tốt, có thuốc vệ sinh sát trùng, phòng trừ bệnh… và không thể thiếu việc trở lửa khi tằm nhả tơ. Trở lửa nghĩa là dùng bếp than sấy phòng tằm để độ ẩm xuống 60-70%, tơ nhả đến đâu keo khô đến đấy, không bị đứt, không bị mấu gút, tỷ lệ tằm đứng né giảm hẳn nên chất lượng cũng như năng suất kén tăng lên trông thấy.

Giờ cả làng La Tiến ai nuôi tằm hầu như cũng áp dụng khá thành thạo những kỹ thuật trên. Khi tôi đến, cả nhà ông Đặng Đình Khởi già trẻ, lớn bé đang xoay trần ra gỡ kén. Ông Khởi có 3 sào ruộng và mới đây đã phải thuê thêm cho đủ 7 sào để trồng dâu nuôi tằm. Ông Khởi nuôi tằm theo kiểu gối lứa nên mỗi năm được 11-12 lứa, mỗi lứa 60-70 kg kén (trung bình mỗi vòng trứng 10kg kén), trừ chi phí cũng được lãi cỡ 2,8-3,2 triệu đồng/tháng, tổng lãi khoảng 25 triệu đồng/năm.

Ông hạch toán: “Một sào dâu mỗi năm bón 15 kg đạm, 20 kg NPK là có thể nuôi 10 lứa tằm ngon ơ, thu lãi hàng triệu. Nhà tôi cấy lúa để đủ ăn còn nuôi tằm để tích luỹ chú ạ”. Hàng trăm hộ khác trong làng La Tiến rồi Thị Giang cũng có khoản thu nhập từ vài trăm ngàn đến cả triệu đồng/tháng như vậy từ nghề tằm. Con tằm đã giúp cho đời sống của họ đỡ nhọc nhằn và có phần khấm khá lên nhiều…

Xem thêm
Người dân Vĩnh Phúc viết đơn xin dừng chăn nuôi trong khu dân cư

Tính đến cuối năm 2024 đã có 332 hộ chăn nuôi ở tỉnh Vĩnh Phúc làm đơn đề nghị hỗ trợ dừng chăn nuôi ở khu vực không được phép chăn nuôi.

Hoàn thành chi trả bồi thường cho các hộ dân có bò sữa bị thiệt hại

Lâm Đồng Công ty Navetco đã hoàn thành chi trả tiền bồi thường cho 350/350 hộ dân ở Lâm Đồng có bò sữa bị thiệt hại với số tiền hơn 41 tỷ đồng vào ngày 21/12.

Áp dụng IPHM, 5 sào bưởi cho lợi nhuận tăng thêm hơn 16 triệu đồng

Khánh Hòa Không chỉ giảm chi phí vật tư đầu vào, áp dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM) trên cây bưởi còn giúp nông dân tăng lợi nhuận và chất lượng sản phẩm.

Giống sắn HN1 năng suất vượt trội, kháng bệnh khảm lá

Chi cục Trồng trọt và BVTV Bình Thuận triển khai 2 mô hình trồng giống sắn HN1 tại các huyện Đức Linh và Hàm Tân đều cho năng suất vượt trội, kháng bệnh khảm lá.