Hà thủ ô trắng còn có tên là Mã liên an, dây mốc, củ vú bò, dây sừng bò, dây sữa bò, tên khoa học Streptocaulon juventus (Lour) Merr, họ thiên lý Asclepiadaceae.
Là loại dây leo nhỏ, tự quấn, thân màu đỏ sẫm hoặc đỏ nhạt, có nhiều lông mịn. Lá mọc đối, phiến lá nguyên, hình bầu dục, chóp lá nhọn, gốc lá tròn, dài 4-14cm, rộng 2-9cm. Hoa nhỏ, màu lục vàng nhạt, mọc thành xim ở nách lá. Quả gồm 2 đại xếp ngang ra hai bên trông như đôi sừng bò. Hạt dẹt mang một mào lông mịn.
Toàn cây có nhựa mủ màu trắng như sữa. Bộ phận dùng: Củ (rễ mẫm lên thành củ), dây lá tươi. Củ thường khai thác vào mùa thu, rửa sạch, cắt lát thành phiến dày 5,0 – 1cm, phơi sấy khô, bảo quản chống mốc hoặc có thể ngâm vào nước vo gạo một đêm trước khi phơi hay sấy khô.
Vị thuốc từ hà thủ ô trắng
Theo Đông y, củ hà thủ ô trắng vị đắng, tính mát, có tác dụng bổ máu, bổ gan thận, thanh nhiệt, giải độc, chữa sốt nóng, sốt rét, cảm sốt ra nhiều mồ hôi. Bị sưng đau, phụ nữ ít sữa, liều dùng 12 –20g/ ngày dưới dạng thuốc sắc, cao thuốc, rượu thuốc, thuốc hoàn. Chế với đậu đen tác dụng như hà thủ ô đỏ.
Các thầy thuốc thường dùng củ hà thủ ô trắng để chữa thiếu máu, thận gan yếu, thần kinh suy nhược, ăn ngủ kém, sốt rét kinh niên, phong thấp tê bại, đau nhức gân xương, kinh nguyệt không đều, bạch đới, ỉa ra máu, trừ nọc rắn cắn, bạc tóc sớm, bệnh ngoài da mẩn ngứa. Có nơi còn dùng củ và thân lá của cây để chữa cảm sốt, cảm nắng, sốt rét. Có người còn dùng dây sắc lấy nước cho phụ nữ sinh đẻ thiếu sữa uống cho có thêm sữa. Dây lá cũng được dùng đun nước tắm và rửa để chữa lở ngứa.
Người ta còn dùng củ chữa cơn đau dạ dày. Lá và rễ hà thủ ô trắng tươi chữa rắn cắn: Khi bị rắn cắn, cho nạn nhân nhai rễ, lá hà thủ ô trắng tươi nuốt nước, bã đắp vào chỗ rắn cắn khi đã hút máu và nọc độc nơi vết thương.
Kiêng kỵ: Không dùng hà thủ ô trắng (toàn cây) cho người tạng lạnh, người bệnh thuộc hư chứng.