| Hotline: 0983.970.780

Hiệu quả từ các công trình thủy lợi điều tiết và tích ngọt tại Trà Vinh

Thứ Ba 13/07/2021 , 18:46 (GMT+7)

Nhờ các công trình thủy lợi, giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp Trà Vinh 6 tháng đầu năm nay đạt trên 11,8 nghìn tỷ đồng, tăng trên 13% so với cùng kỳ.

Trà Vinh, một trong những địa phương cuối nguồn sông Cửu Long thường xuyên chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt vào mùa khô. Đặc biệt, những năm gần đây, tình trạng này diễn ra ngày càng gay gắt.

Ông Lê Quang Răng, Chi cục trưởng Chi cục Thuỷ lợi tỉnh Trà Vinh cho biết: Mỗi năm nước mặn nồng độ cao xâm nhập và kéo dài khoảng 4 tháng. Những năm hạn hán, xâm nhập mặn gay gắt thì thời gian còn kéo dài hơn.

Điển hình như đợt xâm nhập mặn mùa khô 2019-2020, hạn mặn đã làm ảnh hưởng trên 25,8 nghìn ha trên cả 3 vụ lúa. Nhất là vụ lúa đông xuân, diện tích bị thiệt hại trên 23,7 nghìn ha. Dẫn đến sản lượng lúa ước giảm trên 406 nghìn tấn, tổng thiệt hại kinh tế trên 1.000 tỷ đồng.

Cống Láng Thé, kiểm soát mặn - ngọt tại tỉnh Trà Vinh. Ảnh: Hữu Đức.

Cống Láng Thé, kiểm soát mặn - ngọt tại tỉnh Trà Vinh. Ảnh: Hữu Đức.

Thời gian qua, nhờ vận hành, khai thác có hiệu quả các công trình thuỷ lợi mà tỉnh Trà Vinh đã hạn chế thấp nhất tình trạng thiếu nước, khô hạn trong sản xuất ở đầu vụ lúa đông xuân 2020 – 2021, nhất là khu vực nội đồng.

Theo ông Trần Văn Dũng, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Trà Vinh, 6 tháng đầu năm 2021, tình hình nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất và dân sinh cơ bản được đảm bảo. Giá trị sản xuất toàn ngành đạt trên 11,8 nghìn tỷ đồng, tăng trên 13% so với cùng kỳ. Công tác thuỷ lợi nội đồng được thực hiện hoàn thành 100% khối lượng công trình.

Sở NN-PTNT đã phối hợp với Công ty TNHH MTV Quản lý và khai thác công trình thuỷ lợi kiểm tra, vận hành các cống tích trữ nước ở những nơi có điều kiện, ngăn triều cường phục vụ sản xuất. Mực nước nội đồng luôn đảm bảo từ 0,5 - 0,7m phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Ông Phạm Văn Kha, Phó Trưởng phòng Phòng NN-PTNT huyện Cầu Kè cho biết: Năm 2020 là năm đầu tiên vận hành hệ thống cống Bông Bót và Tân Dinh. Hệ thống cống này ngăn mặn từ phía biển lấn lên phía sông Hậu cũng như thực hiện trữ ngọt cho các kênh trục và kênh cấp I, cung cấp nguồn nước vào nội đồng, điều tiết nguồn nước về các huyện vùng ven biển khá hiệu quả.

Tại huyện Cầu Kè, mùa khô năm 2021 không xảy ra tình trạng thiếu nước ngọt và mặn vào kênh trục như những năm trước đây. Nhìn chung, các diện tích sản xuất nông nghiệp ít bị tác động do thiếu nước và mặn đe dọa trong vùng nội đồng.

Cũng theo ông Phạm Văn Kha, năm 2021 huyện Cầu Kè tập trung triển khai nạo vét 34 tuyến kênh thủy lợi nội đồng, dài gần 46km. Đến nay, hệ thống thủy lợi và công tác trữ ngọt tại các kênh trục, kênh cấp I, cấp II ở Cầu Kè đảm bảo tưới tiêu trên 95% diện tích sản xuất. Vụ lúa đông xuân 2020 – 2021, nông dân Cầu Kè xuống giống 7.436 ha, năng suất bình quân đạt 6,6 tấn/ha, tăng 2 tấn/ha, sản lượng lúa tăng trên 13.500 tấn so với cùng kỳ.

Vụ đông xuân 2021 tỉnh Trà Vinh không bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn. Ảnh: Hữu Đức.

Vụ đông xuân 2021 tỉnh Trà Vinh không bị thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn. Ảnh: Hữu Đức.

Đối với huyện Trà Cú thường chịu tác động của nước mặn và thiếu nước trong sản xuất, vụ đông xuân và đầu vụ hè thu. Những năm qua, công tác thủy lợi nội đồng luôn được địa phương tập trung triển khai thực hiện quyết liệt ngay từ đầu năm.

Đây là một trong những giải pháp ứng phó với tình hình BĐKH. Vụ lúa đông xuân 2020 – 2021 vừa qua, nông dân huyện Trà Cú xuống giống được 12.280 ha, vượt kế hoạch 4.570 ha, năng suất bình quân 6 tấn/ha và không có diện tích thiệt hại do khô hạn, thiếu nước sản xuất.

Ông Thạch Sô Phanh, Phó Trưởng phòng NN-PTNT huyện Trà Cú cho biết: Các vùng sản xuất ở Trà Cú nằm cuối nguồn. Khi bắt đầu mùa khô hạn, việc trữ ngọt là giải pháp then chốt để giúp sản xuất nông nghiệp ứng phó với BĐKH. Từ đó, công tác thủy lợi được địa phương tập trung triển khai với sự tham gia đối ứng của người dân về mặt bằng, Nhà nước hỗ trợ kinh phí thuê cơ giới nạo vét. Qua đó, đảm bảo diện tích sản xuất được tưới tiêu. Ngoài ra, ngành nông nghiệp còn phối hợp cùng các địa phương thực hiện khai thông dòng chảy tại các tuyến kênh cấp I, II.

Trong bối cảnh của biến đổi khí hậu (BĐKH), Bộ NN-PTNT cùng với chính quyền địa phương đã đầu tư những công trình điều tiết mặn ngọt, giúp nhân dân chủ động hơn trong sản xuất. Cuối năm 2019, đầu năm 2020, các cống Bông Bót, Tân Dinh, Vũng Liêm do Bộ NN-PTNT đầu tư được đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào vận hành, đã góp phần kiểm soát mặn, trữ  và giảm nhẹ thiên tai ở địa phương. Tháng 9/2020, Bộ NN-PTNT chính thức bàn giao những công trình này cho hai tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long quản lý, vận hành.

Giai đoạn 2015 - 2020, tỉnh Trà Vinh đã tổ chức đào đắp, nạo vét trên 3.000 công trình thủy lợi nội đồng với chiều dài 1.761km, khối lượng trên 6 triệu m3.

Riêng năm 2020, Sở NN-PTNT Trà Vinh tập trung triển khai thực hiện 21 dự án (17 dự án chuyển tiếp và 4 dự án khởi công mới) gồm: 2 công trình phục vụ nuôi thủy sản, 9 công trình đê kè, 10 công trình dân dụng, tổng vốn trên 732 tỷ đồng.

Trong công tác thủy lợi, địa phương đã tổ chức nạo vét 455 công trình kênh nội đồng, dài trên 335 km. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2021, các địa phương trong tỉnh tiếp tục triển khai 631 công trình thủy lợi nội đồng, đạt gần 93% kế hoạch năm, dài 449 km, khối lượng đào đắp trên 1,2 triệu m3.

    Tags:
Xem thêm
Giá thanh long Bình Thuận tăng mạnh

Do nguồn cung khan hiếm vì cuối vụ chong đèn, cộng với thị trường Trung Quốc tiêu thụ ổn định nên giá thanh long Bình Thuận tăng mạnh.

Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Chọn nhân sự ‘dám nghĩ, biết làm’, Dabaco đặt kế hoạch lợi nhuận 729 tỷ đồng

Trong bối cảnh chính trị, kinh tế thế giới và trong nước nhiều biến động khó lường, cùng mục xuyên suốt là 3F, năm 2024 Dabaco sẽ chọn lựa nhân sự ‘dám nghĩ, biết làm'.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm