| Hotline: 0983.970.780

Kinh ngạc hai giống “siêu khoai lang”

Thứ Sáu 25/01/2013 , 10:29 (GMT+7)

Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây (Trường ĐH Thành Tây, Hà Nội) vừa tiết lộ hai giống khoai lang có khả năng cho năng suất “khủng”, tới 70 – 80 tấn/ha, canh tác tốt sẽ đạt 100 tấn/ha.

Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây (Trường ĐH Thành Tây, Hà Nội) vừa tiết lộ hai giống khoai lang có khả năng cho năng suất “khủng”, tới 70 – 80 tấn/ha, canh tác tốt sẽ đạt 100 tấn/ha.

Hai giống khoai lang này có tên là Hà Nam Vương và Quảng Đông 1, đều có xuất xứ của Trung Quốc, do nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn trực tiếp tổ chức NK về Việt Nam vào tháng 7/2012, Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây là đơn vị được giao trồng khảo nghiệm lần đầu tiên tại xã Cư Yên (Lương Sơn, Hòa Bình). Đây là giống khoai lang nổi trội nhất trong số hàng chục giống khoai lang mới, vừa được ông Nguyễn Công Tạn NK từ Trung Quốc và khảo nghiệm tại Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây.

Mặc dù mới vụ đầu tiên trồng thử nghiệm tại vùng đất đồi cằn cỗi tại xã Cư Yên, lại lệch thời vụ (trồng từ giữa tháng 9/2012), điều kiện và kỹ thuật chăm sóc chưa đảm bảo (không có phân chuồng, phân hữu cơ...), tuy nhiên, hai giống khoai lang này đã cho thấy khả năng thích nghi, sức chống chịu rất tốt với điều kiện đất đai của nước ta. Đặc biệt, cả hai giống đều cho năng suất củ hết sức đáng ngạc nhiên, tới 40 tấn/ha. Theo ông Nguyễn Công Tạn, khi hoàn thiện công tác khảo nghiệm và hoàn chỉnh về độ thuần, nếu được chăm sóc tốt, đúng kỹ thuật, hai giống khoai lang này có thể cho năng suất “khủng”, tới 100 tấn/ha! Đáng kinh ngạc, cả hai giống khoai lang đều có thể cho ra những củ khoai nặng từ 1 – 1,5kg là chuyện... hết sức bình thường!


Những củ khoai nặng 800g – 1kg thế này rất bình thường

Thông tin “sốc” về hai giống khoai lang trên có thể sẽ mở ra đột phá mới trong ngành trồng trọt nước ta. Đây cũng là cơ hội lớn cho ngành chế biến tinh bột cây có củ trong những năm tới. Chúng tôi xin giới thiệu những thông tin chi tiết về hai giống khoai lang này:

- Giống khoai lang Hà Nam Vương: Xuất xứ vùng Hà Nam (Trung Quốc), lá hình tim, thân lá màu xanh, dạng nửa thân bò, vỏ củ màu đỏ, ruột củ màu trắng, có khả năng thích nghi cao với mọi vùng khí hậu. Củ khoai có hàm lượng tinh bột rất cao, chiếm 28% nên đây là giống khoai lang chủ yếu dùng để chế biến tinh bột. Giống khoai này có thể trồng với kỹ thuật truyền thống tại nước ta. Thời gian trồng tới khi thu hoạch từ 100 đến 120 ngày, hoặc khuyến khích kéo dài thêm thời gian để củ khoai tích lũy hàm lượng tinh bột tối đa.


Một gốc khoai lang Hà Nam Vương (củ màu đỏ)

Tại các diện tích trồng thử nghiệm vụ đầu tiên ở xã Cư Yên (huyện Lương Sơn, Hòa Bình) cho thấy: trung bình mỗi gốc cho từ 4 – 6 củ, gốc nhiều có thể cho 10 – 12 củ/gốc; khối lượng củ trung bình từ 400 – 500g; khối lượng củ tối đa lên tới 1,45kg; khối lượng củ trung bình/gốc từ 2 – 2,5kg. Như vậy, theo tính toán, với mật độ trồng khoai lang trung bình từ 35 – 40 nghìn gốc/ha, nếu trồng đạt yêu cầu kỹ thuật, giống khoai lang Hà Nam Vương có khả năng cho năng suất SX thực tế từ 75 – 80 tấn/ha, năng suất tiềm năng có thể tới 130 tấn/ha. So với năng suất của các giống khoai lang địa phương ở vùng ĐBSH hiện nay khoảng từ 9 đến 15 tấn/ha, giống khoai lang Hà Nam Vương có khả năng cho năng suất cao gấp 6 – 7 lần.

- Giống khoai lang Quảng Đông 1: Xuất xứ vùng Quảng Đông (Trung Quốc), lá hình tim, thân lá màu tím, dạng nửa thân bò. Vỏ củ màu trắng, ruột củ màu vàng nhạt, chất lượng củ dẻo, thơm ngon, hàm lượng tinh bột cao nên rất thích hợp làm thực phẩm ăn tươi rất có giá trị. Giống có khả năng thích nghi cao với mọi vùng khí hậu. Giống khoai này có thể trồng với kỹ thuật truyền thống tại nước ta, thời gian trồng tới khi thu hoạch khoảng 120 ngày, khuyến khích kéo dài thêm thời gian để củ khoai tích lũy tinh bột tối đa.


Một gốc khoai lang Quảng Đông 1 thu hoạch tại xã Cư Yên (củ màu trắng)

Tại các diện tích trồng thử nghiệm ở xã Cư Yên (huyện Lương Sơn, Hòa Bình) cho thấy: trung bình mỗi gốc có 5 củ, gốc nhiều có 8 – 10 củ; khối lượng củ trung bình đạt 300 – 400g; khối lượng củ tối đa lên tới 1,1kg; khối lượng củ trung bình/gốc đạt 0,8kg. Về lí thuyết, với mật độ trồng trung bình từ 35 – 40 nghìn gốc/ha, giống có khả năng cho năng suất thực tế 30 – 35 tấn/ha, năng suất tiềm năng có thể lên tới 40 – 50 tấn/ha.

Viện Nghiên cứu và Phát triển công nghệ nông lâm nghiệp Thành Tây cho biết sau thời gian khảo nghiệm, trước mắt sẽ nhanh chóng phổ biến hai giống khoai lang này cho nông dân địa phương lân cận SX để đánh giá thêm. Viện này cũng khuyến khích các cá nhân, đơn vị, tổ chức, DN có thiện chí hợp tác nhằm sớm đưa các giống khoai lang này ra SX đại trà, đặc biệt là gắn với công nghệ chế biến tinh bột.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm