Đó là nội dung được đề cập tại Diễn đàn thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị nông sản, tận dụng lợi thế và cơ hội từ các FTA do Hội làm vườn Việt Nam phối hợp Hiệp hội rau quả Việt Nam vừa tổ chức tại TP.Hồ Chí Minh.
Theo Hội làm vườn Việt Nam, những năm gần đây, ngành nông nghiệp Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Đặc biệt, trong 2 năm trở lại đây, đại dịch Covid-19, xung đột Nga - Ukraine, chính sách Zero-Covid của Trung Quốc ảnh hưởng không nhỏ đến chuỗi sản xuất và cung ứng tiêu thụ nông sản. Trong bối cảnh đó, các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định đối tác toàn diện khu vực (RCEP)… đã tạo điều kiện để thu hút đầu tư vào nông nghiệp và mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hoá, nông sản.
Ông Nguyễn Duy Lượng, Phó Chủ tịch Hội làm vườn Việt Nam cho biết, chúng ta đang đứng trước cơ hội rất lớn nhưng để tận dụng được các cơ hội thương mại và đầu tư đó, các nông trại doanh nghiệp, HTX nông nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về nguồn gốc xuất xứ, tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm. Mặt khác, mở cửa thị trường cũng đồng nghĩa nông sản trong nước phải chịu áp lực cạnh tranh trực tiếp với nông sản nước ngoài nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa.
Theo ông Lượng, để nâng cao chất lượng nông sản và vượt qua các rào cản kỹ thuật của thị trường nhập khẩu cũng như giữ được thị phần trong nước, các đơn vị sản xuất, kinh doanh nông sản phải đẩy mạnh liên kết chuỗi giá trị, áp dụng KHKT vào sản xuất, hoàn thiện hạ tầng và xây dựng hệ thống quản lý sản xuất, tạo ra sản phẩm chất lượng, an toàn, có giá trị gia tăng cao.
Về thực trạng liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản, Phó cục trưởng Cục Trồng trọt Lê Thanh Tùng cho biết, cả nước hiện có khoảng 18.760 HTX nông nghiệp, 81 Liên hiệp HTX, với tổng số khoảng 3,23 triệu thành viên. Tổng số lao động thường xuyên trong các HTX nông nghiệp là khoảng 550 ngàn người. Cán bộ quản lý HTX nông nghiệp là gần 51 ngàn người. Đã có 4.339 HTX nông nghiệp đảm nhận bao tiêu nông sản, bằng 24,5% tổng số HTX (tỷ lệ này trước năm 2015 chỉ là 5-7%).
Có tác nhân tham gia các chuỗi liên kết-chế biến-tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, gồm 271 tổ chức khoa học, 586.585 hộ nông dân, 4.028 hợp tác xã nông nghiệp và 1.867 doanh nghiệp. Các hình thức liên kết chủ yếu là liên kết tiêu thụ sản phẩm qua hợp đồng, liên kết có hỗ trợ đầu tư và tiêu thụ sản phẩm, liên kết theo chuỗi giá trị khép kín hoặc liên kết dọc giữa doanh nghiệp và hợp tác xã, nông hộ; liên kết ngang giữa doanh nghiệp.
Theo ông Tùng, mặc dù số lượng HTX đảm nhận bao tiêu sản phẩm và số lượng các chuỗi liên kết có xu hướng tăng trong những năm gần đây, nhưng chưa có liên kết nào tạo nên thương hiệu.
Thực tế cho thấy giữa doanh nghiệp và người nông dân vẫn thường xảy ra tình trạng “bội tín” lẫn nhau. Do đó, cần cải thiện mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp, liên kết vùng phải thực sự bền vững cho cả hai chủ thể trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản. Việc liên kết chuỗi chỉ thật sự hiệu quả khi hai bên cam kết chia sẻ lợi ích, cùng hợp tác để tăng giá trị nông sản.
Thay đổi nhận thức của người dân về liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản. Người dân phải tự nhận thức được trách nhiệm và quyền lợi của mình trong vấn đề liên kết. “Nhiều người thắc mắc nếu nông dân tham gia liên kết thì được gì? Câu trả lời đơn giản là để bán được hàng”, ông Tùng chia sẻ.
Ông Trần Thế Như Hiệp, Phó tổng giám đốc Tổ chức chứng nhận NHO-QSCert cũng cho rằng: “Muốn kiểm soát chất lượng trong suốt các chuỗi liên kết nối tiếp nhau đó, các đơn vị tham gia chuỗi phải đổi mới quy trình quản lý, ứng dụng công nghệ như mã vạch, mã số vùng trồng, chỉ dẫn địa lý... để khách hàng có thể truy xuất nguồn gốc một cách chi tiết nhất, tạo uy tín củng cố thương hiệu cho sản phẩm trên thị trường”
Theo ông Hiệp, trong sản xuất, kinh doanh nông sản hay bất kỳ sản phẩm nào, việc đầu tiên cần xác định là bán cái gì, bán cho ai và bán như thế nào mới đưa ra được kế hoạch sản xuất, kinh doanh hiệu quả. Trong số đó, bán cái gì phải dựa vào nhu cầu người mua chứ không phải ở chỉ bán thứ mình có. Khi xác định được nhu cầu thị trường thì phải có phương án để đáp ứng nhu cầu đó.
Giải pháp hiệu quả nhất để nâng cao chất lượng sản phẩm là giữ ổn định, bền vững về nguồn nguyên liệu, tham gia chuỗi logictics. Khi thực hiện tốt liên kết sản xuất sẽ nâng cao chất lượng và giá trị nông sản, tăng hiệu quả kinh tế. Hàng hoá chất lượng cao sẽ thu hẹp sự cạnh tranh. Đặc biệt, sẽ tạo nên giá trị văn hoá của sản phẩm…