Gặp tình cờ, lại nhớ chuyện tình cờ
Không cổ tích, mà còn hơn cổ tích
Ở hồi trước, bạn đọc đã chứng kiến mấy anh chị tiếp thị sợ đến… vãi tè, sau đó được đưa qua công an xã làm việc. Chuyện không nói nữa.
Nay nói chuyện bác Cả, được bà Vếu mời sang ăn bữa cơm thân mật với hai lý do: Thứ nhất, cảm ơn bác Cả đã lật tẩy được bọn tiếp thị rởm, khỏi cảnh tiền mất tật mang. Thứ hai, chiêu đãi ông anh họ từ miền Nam bay ra thăm quê. Thật là nhất cử lưỡng tiện.
Trong bữa cơm thân mật ở nhà quê hiện nay, cũng nhiều nhà dùng bia chai, bia lon tiếp khách. Nhưng phổ thông nhất và cũng khoái khẩu nhất, vẫn là cái loại chai sáu lăm nút lá chuối. Không ngờ với ông khách đã từng định cư mấy chục năm ở miền Nam, cũng khoái khẩu loại rượu quê, mà ngày xưa gọi là “cuốc lủi” này.
Ông anh họ bà Vếu, có tên Tất. Ông là con thứ ba trong gia đình, nên khi vào Nam thành tên kép: Tư Tất. Nôm na ta gọi là ông Tư.
Dẫu người miền Bắc đặc sệt từ đầu đến chân, nhưng do sinh sống trong Nam, cái giọng Bắc của ông Tư cũng lơ lớ, thỉnh thoảng đá vài từ miền trong. Vậy xin bạn đọc lượng thứ, khi người chép chuyện dùng những lời thoại đôi khi khó lọt tai.
Sau vài tuần rượu, câu chuyện của hai ông bỗng trở nên rôm rả. Chả là cách đây hai năm, bác Cả tình cờ quen biết ông Sáu Sộp, quê miệt vườn Đồng Tháp, Long An chi đó. Sự quen biết, phải nói trên cả tình cờ, nhưng để lại một ấn tượng rất mạnh trong lòng bác Cả. Bởi vì nó có quan hệ đến bữa nhậu và cuộc quen biết tình cờ hôm nay, nên người chép chuyện xin phép kể lại lòng vòng đôi chút.
Minh họa: Trọng Toàn
Hôm đó, bác Cả còn nhớ là vào chiều Chủ nhật. Cách đây vài năm, vùng quê lúa của bác Cả cũng đã khởi sắc nhiều lắm. Nhà tầng. Đường bê tông. Quán xá nhộn nhịp. Đặc biệt các quán nhậu bao giờ cũng đông vui, đủ cả các món trong Nam ngoài Bắc. Bây giờ do kinh tế phát triển, không thiếu gì các đại gia tìm đến vùng quê. Và trong các đại gia ấy, có đại gia ở tít miệt vườn Nam bộ, ra đầu tư kinh doanh.
Ở cái quán tấp nập vào loại nhất thị trấn hôm đó, bác Cả được một ông bạn mới đến chơi, rủ đi nhậu một bữa cho vui. Mang tiếng nhậu cho nó oai, cũng chỉ có một đĩa bê tái chanh, thêm đĩa lạc luộc, nhắm với bia hơi xóm. Thôi thì vui là chính.
Cái chuyện nhậu ở nông thôn nó khác với thành phố, là ta có quyền mang theo cái điếu cày, nếu ta muốn. Bởi thế, bác Cả đã mang theo một cái điếu cày. Uống ngụm bia, rít một hơi thuốc lào, lại có cái thú riêng của nó. Bác Cả không tội gì mà không tận hưởng thú vui này.
Trái ngược với bàn của hai ông, bàn bên cạnh thật rôm rả. Có tới bốn năm ông, bày la liệt các loại đặc sản từ miền núi đến miền biển. Bia thì nhậu loại chai xịn, mà cũng bày la liệt, xếp chật cả bàn. Trong bàn, một nhân vật được mọi người chú ý, không chỉ cách ăn mặc, mà còn giọng nói. Ấy là cái giọng đặc Nam bộ. Có dễ là một đại ca miệt vườn ra Bắc kiếm cơ hội làm ăn.
Hai bàn nhậu trái ngược ấy, thực ra cũng chẳng có gì đáng nói. Điều đáng nói là từ lúc bác Cả “bắn” điếu thuốc lào.
Cũng xin kể chút về cái điếu cày của bác Cả. Như các bạn đã rõ, hiện nay ở các quán cóc, quán chè chén vỉa hè, các chợ quê chợ tỉnh, nhan nhản các loại điếu cày trông rất phản cảm. Nào là điếu miệng bọc sắt, bọc nhôm. Nào là điếu i-nốc, điếu sắt mạ…
Điếu của bác Cả, một cái điếu hiếm hoi còn sót lại. Đó là một cái điếu tre già, được hun khói bếp, đẽo gọt rất cầu kỳ. Nõ điếu bằng gỗ, nén chặt vào thân điếu. Đến mức dù đang mải nói chuyện, người ở bàn khác cũng phải quay sang để… nhìn.
Như trên đã nói, chuyện bắt đầu từ tiếng điếu cày nổ giòn tanh tách này. Sau khi bác Cả đặt điếu, thả khói lên trần nhà, thì thấy cái ông cũng không còn trẻ nhưng cũng chưa hẳn già ở bàn bên cạnh xuất hiện: “Bác này! À, xin hỏi bác tên chi?”.
Bác Cả có vẻ lúng túng: “Tôi tên Cả. Ở quê thường gọi…”. “Thôi! Khỏi. Bác tên Cả. Tôi là Sáu. Ở trỏng vẫn gọi tui là Sáu Sộp. Tui muốn phiền bác cho xem cái điếu cày được hôn?”. Bác Cả phì cười. Cứ tưởng chuyện gì quan trọng. Bác nhấc cái điếu: “Mời ông! Ông hút thử”.
Ông Sáu không hút thử, mà vừa cầm vừa ngắm nghía, như thể nó là một món đồ cổ, rồi ông quay sang bác Cả: “Bác để lại cho tui, tui mang về Nam làm kỷ niệm. Tui ham cái điếu này lắm!”. Bác Cả quả là bị bất ngờ. Ai lại đi bán cái điếu cày bao giờ? Với lại bán thì được bao nhiêu?
Dường như hiểu nỗi băn khoăn của bác Cả, ông Sáu cười: “Tui biết bác không có ý định bán. Nhưng mai tui đã bay rồi. Tui muốn có một thứ làm kỷ niệm. Chui cha! Quà cáp thì đầy. Nhưng tui không xài những thứ đó. Bác bán cho tui đi. Tui trả nhiều tiền. Tui không thiếu tiền mà".
Câu nói của ông Sáu như động vào lòng tự ái của bác Cả. Bác Cả cầm cái điếu, trịnh trọng đưa cho ông Sáu: “Tôi biết ông không thiếu tiền. Nhưng tôi đã nói rồi. Tôi không bán. Tôi biếu ông”.
Ông Sáu tỏ ra cảm động thực sự. Ông nắm lấy tay bác Cả, lắc lắc: “Tui nhìn bác, biết bác là người phúc hậu. Bác đã cho thì tui xin. Nhưng tui có cái quà này, bác hổng được từ chối. Bác hứa với tui đi”. Bác Cả gãi tai: “Quà gì, tôi chưa biết. Nhưng tôi hiểu rằng bác là thực lòng. Vậy tôi xin nhận”.
Ông Sáu giơ cao tay, đập mạnh vào tay bác Cả: “Bác chơi ngon he! Vậy tui xin biếu bác một cặp vé khứ hồi đi Sài Gòn. Tui biết bác chưa đi máy bay lần nào. Bác hãy đi một chuyến. Vào đến Sài Gòn, bác gọi điện cho tui, sẽ có người đến đón. À! Còn bộ vé, khi nào bác đi, đăng kí tại quầy bán vé máy bay ở thị xã. Có người lấy vé đưa tới tận tay cho bác...".
Bác Cả ngừng câu chuyện, rót đầy chén rượu, giơ lên: “Nào! Bác Tất. Ta cạn. Câu chuyện của tôi có vậy".
Ông Tất bỗng nhổm người: “Cái ông Sáu ấy, tôi biết. Nổi tiếng là “Công tử Bạc Liêu” thời mới đó. Ông ấy còn có biệt danh, là Sáu Bạc Liêu. Câu chuyện của Sáu Bạc Liêu là như thế này…”.
Thế thực là:
Tặng cái điếu, biếu “khứ - hồi”
Chuyện thật mà cứ như chơi, như đùa.
Chưa biết chuyện của ông Tư Tất ra sao. Xin vào hồi sau sẽ rõ.