Cây chè qua 3 thế hệ
Nhiều hộ không chỉ cha truyền con nối duy trì nghề chè của gia đình mà còn mạnh dạn đầu tư phát triển thành những cơ sở có quy mô tầm cỡ. Tính đến nay, cây chè Tân Cương đã có lịch sử hơn trăm tuổi, kể từ ngày cụ Đội Năm Vũ Văn Hiệt mang những cây chè đầu tiên về trồng tại vùng đất này. Người Tân Cương tính rằng, dù nhìn từ góc độ nào, thì nghề chè Tân Cương cũng đã qua 3 thời kỳ.
Nếu tính về người, thì đã trải qua 3 thế hệ. Lớp đầu tiên, là những người làm công của cụ Đội, chập chững học nghề. May mắn thay, đất đồi Tân Cương như sinh ra để dành riêng cho cây chè. Sản phẩm chè búp khô mang nhãn hiệu “con Hạc” ngay khi vừa ló mặt ra thị trường đã liên tiếp thắng những thương hiệu lâu đời của Trung Quốc và Ấn Độ trong các cuộc đấu xảo tại Hà Nội suốt giai đoạn 1925 - 1930, nức tiếng gần xa, đưa Tân Cương trở thành “đệ nhất danh trà” của Việt Nam.
Thế hệ thứ hai, là những xã viên của phong trào xây dựng hợp tác xã chè những năm 1960, mà ông Bùi Văn Tiến, xóm Hồng Thái 2, người trẻ nhất, thì nay cũng đã hơn 70 tuổi, đã lui lại nghỉ ngơi để nhường nghề cho con cháu.
Còn nếu tính về phương tiện, thì bắt đầu từ chảo gang, rồi đến tôn quay đốt bằng củi, và nay đã thay thế bằng tôn đốt bằng ga, máy sấy, máy vò hiện đại. Tính theo bao bì, trước đây sản phẩm được đóng bao nửa tạ một, sau đó là túi bóng kính trọng lượng 1kg mỗi túi, đến nay đóng hút chân không, túi lớn thì 1 kg, túi nhỏ thì vừa đủ pha 1 ấm, bảo quản cả năm trời chất lượng vẫn không suy suyển.
Truyền nghề...
Những người làm chè giỏi nhất Tân Cương hiện nay, chính là thế hệ thứ ba của vùng chè. Mẹ của ông Trần Văn Thắng, chủ cơ sở chè Thắng Hường tại xóm Hồng Thái 2, là cụ Đinh Thị Hương, từng là một trong những người làm chè giỏi nhất Tân Cương.
Đồi chè của cụ Hương đã chia nhỏ cho 8 người con. Hiện, các con của cụ, trong đó có ông Thắng, 52 tuổi, đều làm chè giỏi. Ông cũng là một trong số những người đầu tiên ở Tân Cương đầu tư mua máy sao vò chè thay cho chảo gang trước đây. Vào đầu những năm 2000, khi giá chè phổ biến ở mức 70.000 đ/kg búp khô thì ông Thắng đã làm chè đinh bán với giá 450 nghìn đồng/kg.
Duy trì quy mô sản xuất hộ kinh doanh, song cơ sở chè Thắng Hường không khác gì một doanh nghiệp với hệ thống nhà xưởng, vùng nguyên liệu, đội ngũ làm thị trường được chuyên môn hóa. Bình quân, mỗi năm ông Thắng thu mua hàng chục tấn chè tươi của các hộ trong và ngoài xã để chế biến với điều kiện tuân thủ quy trình sản xuất an toàn, hái đúng thời gian, tiêu chuẩn kỹ thuật của chè đinh, chè nõn.
Gia đình ông Trần Văn Thắng đầu tư 5 thùng sao, 12 máy vò. Trong thời gian 1 buổi chiều, 3 người làm có thể sao được đến 5 tạ chè khô. Với thương hiệu sản phẩm được gây dựng nhờ uy tín và kinh nghiệm làm nghề, chè của gia đình ông có thị trường tiêu thụ tốt.
Từ chỗ tự tay trồng, hái rồi sản xuất chè để bán, mấy năm gần đây, hầu như cơ sở của ông chỉ chuyên chế biến, thậm chí thu mua chè búp tươi với giá 100 nghìn đồng/kg. Sản phẩm chè nõn thượng ty của gia đình anh tiêu thụ khá tốt với mức giá 600 nghìn đồng/kg. Chè đinh hiện có giá 3,5 triệu đồng/kg.
Ông Thắng tâm sự, trước đây ông theo nghề chè chỉ với mục định ổn định cuộc sống của gia đình và nuôi 5 đứa con. Trong quá trình vừa làm vừa quan sát thị trường, nhận thấy ưu thế của chè Tân Cương so với các địa phương khác, ông chuyển sang chuyên làm chè cao cấp và ngày càng phát triển thuận lợi. Đến nay, cơ sở của gia đình ông không chỉ tạo công ăn việc làm ổn định cho các con cháu mà còn thu hút hàng chục lao động địa phương.
Chủ động vùng nguyên liệu
Được thừa hưởng nghề làm chè của gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh trà Phúc Kim của anh Dương Văn Phúc, 36 tuổi, xóm Soi Vàng, xã Tân Cương có sản lượng tiêu thụ từ 3 - 4 tấn chè búp khô mỗi tháng. Năm nay, ảnh hưởng bởi dịch bệnh, việc chuyển phát hàng hoá đi các tỉnh khó khăn nên có những tháng chỉ bán được trên 1 tấn, các mức giá từ 150 nghìn đến 2,7 triệu đồng/kg.
Bà Nguyễn Thị Kim, 60 tuổi, mẹ của Phúc, là một trong những “thợ chè” nổi tiếng của vùng. Không chỉ đảm đang tháo vát, buôn bán rất đắt hàng, bà Kim cũng là người làm chè giỏi, từng giành giải Nhất và Huy chương Bạc nội dung sao chè ngon tại các Liên hoan Trà Thái Nguyên. Tất cả những bí truyền về nghề chè được rèn giũa từ thuở nhỏ, bà Kim đã dần kèm cặp cậu con trai tiếp nối vững vàng nghề truyền thống của gia đình.
Bà Kim chia sẻ kinh nghiệm xương máu trong việc kinh doanh chè là cần phải chủ động được vùng nguyên liệu. Đó là cơ sở để tìm kiếm thị trường và bạn hàng bền vững. Trước đây, chè nguyên liệu được thu mua theo thời vụ nên giá bán thành phẩm chè búp cũng không cố định, tháng chính vụ giá khá thấp nhưng vào dịp Tết nguyên đán lại tăng gấp vài lần. Giá cả biến động như vậy rất khó đưa chè vào hệ thống cửa hàng, siêu thị.
Những năm gần đây, các cơ sở kinh doanh chè hầu như ổn định giá bán trong suốt năm cũng là nhờ chủ động được nguyên liệu. Vùng nguyên liệu chính của Cơ sở Phúc Kim là diện tích chè của 12 hộ trong tổ sản xuất chè VietGAP xóm Soi Vàng. Ngoài ra, mỗi tháng còn thu mua gần 1 tấn chè búp khô của một số hộ lân cận để bán đi nhiều tỉnh thành trong cả nước.
Riêng sản phẩm chè tôm, chè đinh cao cấp thì dùng nguyên liệu của chính vườn chè do gia đình tự tay chăm sóc, thu hái. Những năm vừa qua, trước thời điểm dịch bệnh, trung bình mỗi năm, gia đình anh đón từ 40 - 50 đoàn khách du lịch đến trải nghiệm hái chè, sao chè và thưởng thức chè miễn phí. Anh Phúc bày tỏ bản thân rất tự hào được sinh ra và lớn lên tại Tân Cương, vùng đất nổi tiếng với cây chè.
Thực tế công việc sản xuất kinh doanh chè của gia đình xưa nay đều thuận lợi. Cây chè cũng giúp cho những người xung quanh anh ổn định cuộc sống, ngày càng khá giả hơn. Chính vì vậy, anh xác định gắn bó với nghề làm chè truyền thống, đồng thời tìm những hướng đi mới mẻ để phát huy giá trị cây chè, như đa dạng hoá các sản phẩm chè để phù hợp với thị hiếu giới trẻ, tham gia làm du lịch sinh thái gắn với nghề chè.