Ao nuôi: Ao thường có diện tích nhỏ từ 0,1-1ha. Bờ ao phải có đăng chắn để phòng cá thoát đi và các loài ăn hại xâm nhập. Độ cao của đáy ao phải ở trên mực nước trung bình, có rãnh ở giữa ao rộng 2 m hướng về phía cửa cống, theo chiều dài ao để tiện việc tháo cạn nước và làm nơi trú ẩn cho cá vào những ngày nắng to. Đáy ao là đất thịt để các loài tảo ở đáy phát triển tốt và hố do cá đào không bị san bằng đi như trên đất cát.
Xử lý ao trước khi thả cá: Cá bớp ăn tảo ở đáy, vì vậy cần làm cho tảo phát triển tốt trước khi thả cá. Đối với ao mới đào bón 600kg phân chuồng/ha, có thể cho thêm cám gạo, cho nước biển có độ mặn thấp, giữ độ sâu 15 cm. Tảo silic và tảo lam sẽ phát triển ở đáy ao. Những loài ăn tảo ở đáy như ốc phải diệt trừ bằng Bayluscide 0,3ppm, Sumithion 0,3ppm hoặc Lebaycid 0,25ppm.
Thả giống: Mật độ thả 30.000 con/ha, tối đa là 50.000con/ha.
Quản lý ao: Thời kỳ đầu, nước ao giữ ở mức 15cm. Sau 45 ngày, khi cá đạt cỡ trên 5cm sẽ làm đáy ở nền tảo bị hư hại, bà con cần tháo cạn nước và phơi nắng 3-6 ngày. Sau đó bón phân bắc, cám gạo... Cho nước lợ vào ao, lớp tảo đáy lại được hình thành. Mực nước giảm xuống 2cm-7cm.
Nhiệt độ: Cá bớp sinh trưởng tốt nhất ở nhiệt độ trên 28oC. Chúng ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ xuống dưới 14oC.
Thu hoạch: Dùng lờ tre chắn ở lối chính vào hố của cá để đơm cá. Cũng có thể dùng lưới vó chắn ở cửa lấy nước. Khi tháo nước vào ao, cá tập trung ngày trên vó, kéo lưới lên bắt cá.
Cá bớp nuôi từ 1-2 năm để đạt được quy cỡ thương phẩm tuỳ thuộc điều kiện ao và cách quản lý. Cỡ thương phẩm nhỏ nhất là 24 g, cỡ lớn nhất đạt 40 g, tỷ lệ sống 60%.