| Hotline: 0983.970.780

Quảng Ngãi vượt khó

Thứ Sáu 23/10/2015 , 06:15 (GMT+7)

Việc thực hiện Chương trình MTQG Nước sạch và VSMTNT trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2015 gặp rất nhiều khó khăn.

Ông Nguyễn Văn Thuộc, GĐ Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường nông thôn (VSMTNT) Quảng Ngãi, cho biết như vậy.

Lý do nguồn vốn đầu tư xây dựng chỉ bằng 60% năm 2014. Bên cạnh đó, những vùng hiện nay còn thiếu nước sinh hoạt là nơi không có nguồn nước để khai thác, suất đầu tư cho các công trình này khá cao, vì phải khai thác nguồn nước khá xa.

Song song với đó, đất đền bù giải phóng mặt bằng và thủ tục thu hồi đất, cấp đất còn nhiều bất cập nên tiến độ thi công các công trình còn chậm.

Nhiều công trình hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng việc đóng góp của người dân hưởng lợi không thực hiện được theo cam kết, kéo dài nhiều năm.

“Tuy nhiên, được sự chỉ đạo kịp thời của Sở, ngành, các địa phương có liên quan tham gia thực hiện chương trình; đặc biệt Bộ NN-PTNT và các tổ chức quốc tế tạo điều kiện giúp đỡ về chuyên môn cũng như hỗ trợ vốn nên kế hoạch đề ra được hoàn thành”, ông Thuộc nói.

Cũng theo ông Thuộc, trong năm 2015, tổng vốn đầu tư cho nước sạch khoảng 16,6 tỷ đồng, trong đó vốn Trung ương hỗ trợ 11,6 tỷ đồng, địa phương 5 tỷ đồng, bằng 60% năm 2014.

Trong 6 tháng đầu năm, Trung tâm tập trung toàn bộ các nguồn vốn để trả nợ các công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng từ những năm trước còn thiếu.

Chỉ có 4 công trình chuyển tiếp nhưng chưa bố trí vốn đủ để thi công hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2015.

Tuy nhiên, Trung tâm cố gắng đầu tư xây dựng để nâng tổng số người dân được hưởng nước sạch trong năm nay tăng thêm từ 20.000-25.000 người, với tiêu chuẩn 80-100 lít/người/ngày.

Năm 2015, tỉnh phấn đấu đạt 72-73% hộ gia đình có hố xí hợp vệ sinh, 62-63% chuồng trại chăn nuôi được xây dựng và cải tạo đảm bảo vệ sinh. Bên cạnh đó từng bước đầu tư, đảm bảo nước sạch và nhà vệ sinh cho các trạm y tế xã, trường học. Cụ thể, 90% trạm y tế có nước sạch và nhà vệ sinh vào cuối năm 2015.

Qua đó đưa tỷ lệ người dân nông thôn được cung cấp nước sạch tăng thêm 2-2,5%. Nâng tỷ lệ người dân nông thôn được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 85%, trong đó 65% nước sạch đạt Quy chuẩn 02/BYT vào cuối năm 2015.

“Để làm được điều đó, Trung tâm ưu tiên đầu tư các công trình cung cấp nước sinh hoạt cho những vùng đặc biệt khó khăn về nước sinh hoạt, nhất là vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.

Đảm bảo nhu cầu nước sinh hoạt vệ sinh cho dân cư nông thôn sống ở vùng bãi ngang, vùng ven biển bị nhiễm mặn, nhiễm sắt”, ông Thuộc nói.

Ông Nguyễn Quốc Vương, Chủ tịch UBND xã Bình Châu (huyện Bình Sơn) cho biết, địa phương được đầu tư xây dựng công trình cung cấp nước sạch với vốn đầu tư 5,2 tỷ đồng, đến nay đã bước vào giai đoạn hoàn thành.

Dự kiến, công trình cung cấp nước sạch cho gần 550 hộ dân ở các thôn Châu Me, Châu Bình và một số hộ dân tái định khu Dung Quất - Sa Huỳnh.

“Công trình đã làm lợi cho người dân địa phương rất nhiều, bà con có nước sạch để dùng, cuộc sống đỡ vất vả hơn. Đặc biệt, bà con không còn cảnh bỏ tiền mua nước sạch nấu ăn hay dùng nước giếng nhiễm mặn, nhiễm phèn trong cuộc sống”, ông Vương chia sẻ.

Bà Nguyễn Thị Lan, thôn Châu Me xã Bình Châu, phấn khởi: “Đến nay, công trình còn vướng đoạn đường Dung Quất - Sa Huỳnh nên chưa kéo xong ống, nay mai khi đưa vào sử dụng, gia đình tôi hết cảnh đến mùa khô đi vào núi khoan giếng, sau đó chở từng can nước về dùng”.

Mục tiêu trong năm 2015 Trung tâm Nước sinh hoạt và VSMTNT Quảng Ngãi đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng. Vận động người dân xây dựng nhà vệ sinh hộ gia đình, xây dựng và cải tạo chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm…

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm