Việt Nam xuất khẩu 1.517 lô hàng thủy sản sống sang Trung Quốc
Theo thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), 3 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc đạt gần 314 triệu USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm ngoái. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 3 của Việt Nam trong quý I/2024 khi chiếm đến 16,1% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Riêng với xuất khẩu thủy sản sống của Việt Nam sang Trung Quốc, VASEP cho hay, theo thống kê của Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển Thị trường (NAFIQPM), tính đến hết tháng 3/2024, Việt Nam đã xuất khẩu 1.517 lô hàng thủy sản sống sang Trung Quốc và hiện chưa có lô hàng nào bị cảnh báo về tồn dư hóa chất hay kháng sinh.
Đối với thủy sản sống, hiện Trung Quốc đang yêu cầu quản lý theo chuỗi sản xuất, từ khâu nuôi trồng/khai thác, đến thu hoạch/thu gom, vận chuyển, bao gói và xuất khẩu tiêu thụ.
Đặc biệt hiện nay, Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) đang đề nghị góp ý cho dự thảo nghị định thư đối với thủy sản sống của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. Theo đó, Trung Quốc đang yêu cầu các đối tượng tham gia vào quá trình này phải có mã số, phải có vùng nuôi, phải được kiểm soát và có khả năng truy xuất nguồn gốc…
Trung Quốc cũng yêu cầu các cơ sở bao gói phải thực hiện đăng ký và phải nằm trong danh sách được phép xuất khẩu sang Trung Quốc mới được tham gia vào công đoạn xuất khẩu thủy sản sống sang thị trường này.
Những yêu cầu cụ thể cần lưu ý
VASEP cho hay, Trung Quốc đang đặt ra các yêu cầu cụ thể đối với thủy sản sống xuất khẩu gồm: Sản phẩm xuất khẩu nằm trong Danh mục được Trung Quốc công nhận, 48 loài thủy sản động vật, thủy sản sống.
Các cơ sở nuôi được cơ quan quản lý nuôi trồng thủy sản/thú y địa phương kiểm tra, chứng nhận điều kiện an toàn thực phẩm/điều kiện vệ sinh thú y, được cấp mã số/lấy mẫu giám sát bệnh trong quá trình nuôi (tôm sú, tôm thẻ sống).
NAFIQPM thẩm định điều kiện an toàn thực phẩm cơ sở bao gói xuất khẩu sản phẩm thủy sản sống, gửi văn bản đề nghị kèm theo hồ sơ đăng ký của cơ sở tới Vụ Giám sát Kiểm dịch động thực vật, GACC.
Vụ Giám sát Kiểm dịch động thực vật cập nhật danh sách cơ sở đáp ứng yêu cầu trên website của GACC.
Các lô hàng xuất khẩu được cấp chứng thư. Danh mục chứng thư hằng ngày gửi Hải quan Trung Quốc (Nam Ninh) để đối chiếu.
Riêng với tôm hùm bông, từ ngày 1/2/2021, Trung Quốc quy định tôm hùm bông nằm trong danh sách nguy cấp nhóm 2. Và tháng 5/2023, Trung Quốc sửa Luật về bảo vệ động vật hoang dã, trong đó cấm đánh bắt động vật trong danh sách nguy cấp đã ban hành 2021. Do đó, Trung Quốc cấm đánh bắt, sử dụng, giao dịch buôn bán tôm hùm bông tự nhiên. Cách xác định tôm hùm bông nuôi của Trung Quốc là không đánh bắt trực tiếp, phải trải qua quá trình nuôi; con giống phải là F2, nếu con giống khai thác từ tự nhiên cũng được coi là tôm khai thác tự nhiên.
Nhà nhập khẩu của Trung Quốc muốn nhập khẩu tôm hùng bông phải xin giấy phép của Cục Ngư nghiệp (Bộ Nông nghiệp Trung Quốc). GACC chỉ đạo hệ thống Hải quan các cửa khẩu kiểm soát chặt tôm hùm bông khai thác tự nhiên nhập khẩu.
Các cơ sở bao gói của Việt Nam nằm trong danh sách đăng ký xuất khẩu thủy sản sống sang Trung Quốc sẽ thực hiện yêu cầu về thẩm định, chứng nhận lô hàng thủy sản sống xuất khẩu sang thị trường này theo đúng quy định tại Thông tư 48/2013/TT-BNNPTNT và 32/2022/TT-BNNPTNT.
Theo NAFIQPM, hoạt động thẩm định cấp giấy chứng nhận xuất khẩu thủy sản sống sang Trung Quốc hiện đăng gặp phải một số khó khăn vướng mắc. Cụ thể, các lô hàng thủy sản sống xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu dưới hình thức xuất khẩu biên mậu, do đó doanh nghiệp lưu trữ bằng chứng xuất khẩu không đầy đủ. Việc thẩm tra xuất xứ nguyên liệu tại vùng nuôi cần thống nhất về tần suất, tỷ lệ lô hàng được thẩm tra/số lô hàng xuất khẩu. Hệ thống thông tin, dữ liệu về các cơ sở nuôi/vùng nuôi chưa được lập, cập nhật trong cả nước…
Do đó, NAFIQPM đề nghị các doanh nghiệp xây dựng chuỗi liên kết (người nuôi/khai thác, đại lý, doanh nghiệp, quy trình thực hiện, phân rõ trách nhiệm các bên); đồng thời cập nhật chương trình quản lý chất lượng theo thực tế đăng ký với NAFIQPM.
Trên cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp đăng ký, NAFIQPM có văn bản gửi các cơ quan quản lý thủy sản địa phương xây dựng và cập nhật, kiểm soát theo phân cấp các đội tượng quản lý, khuyến khích mô hình lập tổ đội, hợp tác xã liên kết; việc lập và chia sẻ dữ liệu chung cần phải thực hiện đồng bộ và thống nhất tại các đơn vị (danh sách vùng nuôi, cơ sở nuôi/mã số, diện tích sản lượng, cam kết sản xuất kinh doanh an toàn…) để tạo điều kiện xuất khẩu cho doanh nghiệp đáp ứng quy định hiện hành.
Trung tâm Chất lượng Nông lâm thủy sản vùng đề nghị NAFIQPM xem xét phương án xác định lô hàng thủy sản sống được hình thành từ quá trình thu hoạch/thu mua (trên cơ sở doanh nghiệp lập chuỗi quản lý/kiểm soát) để thuận lợi cho xuất khẩu sản phẩm sống.
NAFIQPM cần thống nhất về hoạt động thẩm tra xuất xứ tại vùng nuôi, việc lưu bằng chứng thực tế sản xuất, bằng chứng xuất khẩu và được thực hiện với tất cả các cơ sở sản xuất thủy sản sống xuất khẩu trên cả nước.
VASEP cho biết, theo Tổng cục Hải quan Trung Quốc, danh sách các cơ sở được phép xuất khẩu thủy sản sống của Việt Nam sang thị trường này có 62 cơ sở, trong đó có 5 cơ sở được xuất khẩu tôm sú/tôm thẻ, còn lại 46 cơ sở được xuất khẩu cua và tôm hùm.