| Hotline: 0983.970.780

Thủy sản Việt Nam, 60 năm trưởng thành, phát triển và hội nhập

Thứ Sáu 29/03/2019 , 08:36 (GMT+7)

Theo nguyện vọng của ngành Thủy sản và đông đảo bà con ngư dân, ngày 1/4 hàng năm đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định là ngày Truyền thống ngành Thủy sản Việt Nam.

Vào cuối tháng 3, đầu tháng 4/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm các làng cá và bà con ngư dân ở các đảo Tuần Châu, Cát Bà, Quảng Ninh. Tại đây, Bác đã căn dặn “Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ”. Lời dạy của Bác thể hiện tư tưởng lớn về tiềm năng phát triển của kinh tế biển và khơi dậy ý thức về bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Nhân dịp này, Nông nghiệp Việt Nam xin giới thiệu bài viết của ông Nguyễn Ngọc Oai - Quyền Tổng Cục trưởng Tổng cục Thủy sản.

Ông Nguyễn Ngọc Oai - Quyền Tổng Cục trưởng Tổng cục Thủy sản

Trong 60 năm qua, Ngành Thủy sản đã có những bước phát triển và hội nhập, trải qua 4 giai đoạn chính với những thành tựu nổi bật như sau:

Giai đoạn trước năm 1975: “Vững tay lưới, chắc tay súng”

Đó là giai đoạn trước năm 1975. Giai đoạn này đất nước có chiến tranh, cán bộ và ngư dân ngành thuỷ sản “vững tay lưới, chắc tay súng”, thi đua lao động sản xuất với tinh thần “tất cả vì miền Nam ruột thịt”, cùng cả nước thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược “Xây dựng CNXH ở miền Bắc và đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam”. Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển có công sức lớn của ngư dân.

Năm 1960, Tổng cục Thủy sản được thành lập, đánh dấu thời điểm ra đời của ngành Thủy sản Việt Nam. Kinh tế thuỷ sản đã bước đầu phát triển để hình thành một ngành kinh tế kỹ thuật với các tổ chức nghề cá công nghiệp như các đoàn tàu đánh cá Hạ Long, Việt - Đức, Việt - Trung, nhà máy cá hộp Hạ Long. 

Nuôi tôm công nghệ cao cho năng suất và hiệu quả ổn định - Ảnh: Phan Thanh Cường

Đến năm 1975, sản lượng khai thác cá biển đạt gần 100.000 tấn, thu mua và chế biến hải sản hơn 51.000 tấn, nuôi trồng thủy sản đạt 1.800 tấn, các HTX thủy sản được hình thành và phát triển với 356 HTX nghề cá. 

Giai đoạn 1976-1986: Phát triển mở rộng, phục vụ xuất khẩu

Năm 1976 Bộ Hải sản được thành lập và đến năm 1981 được tổ chức lại thành Bộ Thủy sản. Ngành Thủy sản bước vào giai đoạn phát triển toàn diện cả về khai thác, nuôi trồng, hậu cần dịch vụ, chế biến và xuất khẩu, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ KHCN vào sản xuất, bước đầu tham gia hội nhập với nghề cá thế giới.

Việc ngành Thủy sản được Chính phủ cho phép áp dụng cơ chế “tự cân đối, tự trang trải” đã đưa xuất khẩu thủy sản trở thành mũi nhọn, tạo nguồn lực cân đối chính cho ngành. Phong trào “ao cá bác Hồ” được phát động và xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến như: Cty Xuất nhập khẩu thuỷ sản (Seaprodex Việt Nam); các HTX đánh cá tại Hải Phòng, Thái Bình, Ninh Hải, Vũng Tàu, Kiên Giang,... đã tạo động lực mới cho sự phát triển bền vững của Ngành. Việc phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng và xây dựng kinh tế xã hội vùng biển đã khẳng định rõ vai trò, vị trí của ngành Thủy sản.

Cơ cấu nghề nghiệp khai thác được điều chỉnh mở rộng phục vụ xuất khẩu. Nuôi trồng thủy sản, trong đó có nuôi tôm xuất khẩu bắt đầu được chú trọng phát triển. Năng lực chế biến thủy sản được mở rộng với nhiều mặt hàng mới phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. 

Năm 1986, tổng sản lượng thủy sản đạt hơn 840 nghìn tấn, trong đó khai thác thủy sản đạt gần 600 nghìn tấn, nuôi trồng thủy sản đạt hơn 240 nghìn tấn; xuất khẩu đạt 100 triệu USD; thu mua hải sản đạt hơn 370 nghìn tấn. Cả nước có 563 HTX và 2.321 tập đoàn sản xuất thủy sản.

Giai đoạn 1986 - 1995: Xây dựng ngành thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn

Từ năm 1991 toàn Ngành tập trung thực hiện Chiến lược phát triển ngành Thủy sản với 3 mục tiêu chính được Chính phủ giao là: Đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho người dân ven biển.

Năm 1993, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khoá VII xác định xây dựng thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn. Việc áp dụng thành công cơ chế mới gắn sản xuất với thị trường đã tạo ra bước ngoặt quan trọng cho sự phát triển của Ngành.

Thực hiện Nghị quyết của BCH TƯ Đảng lần thứ 5, khóa VII về xây dựng thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn, ngành thủy sản đã đưa tàu cá đi khai thác ở vùng khơi và tăng cường xây dựng cơ sở hậu cần nghề cá tạo điều kiện cho khai thác hải sản phát triển mạnh. Nuôi trồng thủy sản trong dân tiếp tục phát triển; phương thức nuôi, đối tượng nuôi đa dạng hơn cho hiệu quả kinh tế cao. Nuôi tôm sú ở ĐBSCL phục vụ xuất khẩu tiếp tục được đẩy mạnh. Chế biến thủy sản đã hướng tới đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng mặt hàng xuất khẩu. 

Giai đoạn này, Ngành Thủy sản tập trung đổi mới phương thức quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm, tiếp cận và từng bước đáp ứng đòi hỏi của các thị trường lớn, nhờ đó sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã tạo được uy tín và đứng vững trên các thị trường thuỷ sản trên thế giới. 

Đến năm 1995, tổng sản lượng thủy sản đạt 1,34 triệu tấn, trong đó: Khai thác 928,8 nghìn tấn, nuôi trồng 415,3 nghìn tấn; xuất khẩu đạt 550 triệu USD. Trong giai đoạn 1980 - 1990, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng trung bình 48,29%/năm; đến giai đoạn 1991 – 1995, tăng xuất khẩu vẫn duy trì ở mức 15,97%/năm. Từ sự phát triển mạnh mẽ đó, đến năm 1992, Công đoàn Thủy sản Việt Nam và Hội Nghề cá Việt Nam đã được thành lập.

Với những thành tích xuất sắc đó, đến năm 1990, ngành Thủy sản vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.

Giai đoạn 1995 đến nay: Đưa Việt Nam vào vị trí các nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới 

Giai đoạn này khai thác hải sản xa bờ được quan tâm phát triển (Quyết định 393/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) góp phần tham gia bảo vệ chủ quyền biển đảo. Hạ tầng nghề cá được quan tâm đầu tư (trọng tâm là 10 cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão). 

Cá ngừ vẫn được coi là một trong những đối tượng có nhiều tiềm năng trong phát triển thủy sản - Ảnh: Xuân Trường

Ngành Thủy sản ngày càng hội nhập quốc tế sâu rộng; thị trường xuất khẩu thủy sản quốc tế được mở rộng với sự ra đời, hoạt động hiệu quả của Hiệp hội chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam.

Luật Thủy sản năm 2003, Luật Thủy sản năm 2017 được Quốc Hội ban hành và các văn bản quy phạm pháp luật khác là cơ sở pháp lý để ngành Thủy sản tiếp tục phát triển mạnh, duy trì nhịp độ tăng trưởng cao; đánh dấu việc đổi mới tư duy quản lý ngành từ nghề cá nhân dân sang nghề cá hiện đại, phát triển bền vững, thân thiện với môi trường và đáp ứng yêu cầu hội hập quốc tế. 

Ngành Thủy sản được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược Phát triển thủy sản Việt Nam; Quy hoạch Tổng thể phát triển thủy sản; Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản; Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản đến năm 2020; Quy hoạch phát triển chế biến thủy sản toàn quốc.

Năm 2007, Bộ Thủy sản hợp nhất với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tháng 3/2010, Thủ tướng Chính phủ quyết định Tổng cục Thủy sản thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tháng 3/2013 lực lượng Kiểm ngư được thành lập.

Sau 60 năm phát triển, Ngành Thủy sản đã có những bứt phá vượt bậc. Sản lượng thủy sản năm 2018 đạt hơn 7,74 triệu tấn, gấp 5,6 lần so với năm 1995. Sản phẩm thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu tới hơn 170 thị trường; kim ngạch xuất khẩu lần đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD (năm 1999) và đạt gần 9 tỷ USD (năm 2018), đưa Việt Nam vào vị trí các nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới. Mức tăng bình quân kim ngạch xuất khẩu giai đoạn này đạt 13,3%.

Năm 2007 Ngành Thủy sản vinh dự được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng. Tổng cục Thủy sản được Chủ tịch Nước tặng Huân chương Lao động hạng Nhất nhân kỷ niệm 60 năm Ngày truyền thống ngành Thủy sản (2019)

Nỗ lực thực hiện Nghị quyết của Đảng đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh

Nghị quyết số 36-NQ/TW của BCH TƯ Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt ra mục tiêu “đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh; đạt cơ bản các tiêu chí về phát triển bền vững kinh tế biển; hình thành văn hoá sinh thái biển; chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng; ngăn chặn xu thế ô nhiễm, suy thoái môi trường biển, tình trạng sạt lở bờ biển và biển xâm thực; phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái biển quan trọng. Những thành tựu khoa học mới, tiên tiến, hiện đại trở thành nhân tố trực tiếp thúc đẩy phát triển bền vững”.  

Để đạt được mục tiêu đó, toàn thể lãnh đạo, cán bộ, người lao động và ngư dân ngành Thủy sản tiếp tục đoàn kết, nhất trí, nỗ lực để thúc đẩy tăng trưởng ngành Thủy sản, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, Nhà nước giao.

Xem thêm
Nghệ An: Tôm chết hàng loạt, nghi do bệnh mới

Tôm chết nhiều trên diện tích khoảng 25ha, trong đó phần đa xuống giống chưa được bao lâu. Đây là hồi chuông báo động đối với nghề hoàng kim một thời ở Nghệ An.

Điều động 1 kíp tàu tuần tra, phòng chống khai thác IUU

Từ ngày 22/4, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu điều động 1 kíp tàu tuần tra, kiểm soát kết hợp tuyên truyền phòng, chống khai thác IUU trên vùng biển do đơn vị quản lý.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm