Đại dịch Covid-19 đã cuốn trôi hy vọng cuối cùng cho sự cầm cự của thị trường báo in trong kỷ nguyên internet. Hệ thống phát hành vốn đã manh mún lại bị đứt gãy trong những ngày tháng ứng phó virus corona, thì gần như không thể phục hồi. Báo in, nếu chưa thúc thủ hoàn toàn, cũng đành chấp nhận tồn tại như một bộ phận khiêm tốn của một cơ quan báo chí. Bạn đọc ở đâu thì báo chí ở đấy, khiến mỗi phóng viên loay hoay theo dòng chảy mạng xã hội. Và Tổng Biên tập – người đứng đầu mỗi cơ quan báo chí phải hứng chịu nhiều thử thách cam go của người đứng mũi chịu sào.
Với cơ chế đặc thù Việt Nam, Tổng Biên tập từng là một vị trí nửa hành chính nửa chuyên môn. Thế nhưng, bây giờ, nếu chỉ trông cậy vào cái ghế Tổng Biên tập để thụ hưởng chút đặc quyền đặc lợi về lương bổng thì e chừng không còn phù hợp nữa. Bởi lẽ, khi Facebook đã trở thành một thế lực, thì cái uy Tổng Biên tập cũng chỉ dọa dẫm được doanh nghiệp nhỏ và quan chức huyện. Khi nội dung và quảng cáo đã xóa nhòa ranh giới trên mỗi trang báo, thì Tổng Biên tập trở thành một nghề, vừa căng thẳng vừa nhọc nhằn, luôn luôn tìm kiếm và đưa ra những ý tưởng sáng tạo để nhận được sự đồng hành của nhà tài trợ.
Mới đây, Nhà xuất bản Trẻ tốn khá nhiều công sức để thực hiện một cuốn sách có tên gọi “Tổng Biên tập – Chuyện người trong cuộc”, như một sự tổng kết đời sống báo chí Việt Nam trước khi Facebook xuất hiện. Đọc cuốn sách, công chúng thấy được sự tâm huyết và sự dấn thân của những Tổng Biên tập lừng lẫy một thời như Hữu Thọ, Phan Quang, Hà Đăng, Hữu Ước, Tạ Ngọc Tấn, Đào Nguyên Cát, Võ Như Lanh, Lê Văn Nuôi, Nam Đồng, Nguyễn Thế Thanh, Lý Tiến Dũng, Nguyễn Thị Hằng Nga, Mai Sông Bé, Dương Xuân Nam, Thang Đức Thắng...
Thế nhưng, những Tổng Biên tập tài danh ấy, nếu đặt vào bối cảnh báo chí đang nỗ lực đa phương tiện hiện nay, có lẽ họ sẽ có suy tư khác. Bởi lẽ, chỗ dựa “chính thống” của báo chí đã lung lay trước sức lan tỏa khủng khiếp của mạng xã hội. Một Tổng Biên tập chỉ ngồi rung đùi trong phòng máy lạnh để hò hét ra oai với cấp dưới, mà không biết tranh thủ trò chuyện với các nhãn hàng và nhạy bén thực hiện các dự án, thì tờ báo tập tức chới với bên miệng vực thẳm tàn lụi.
Chưa bao giờ làm Tổng Biên tập khó khăn như bây giờ, vì áp lực tuyên truyền và áp lực thu nhập của mỗi tờ báo, đang xé tung những mô thức tác nghiệp truyền thống. Tất cả mọi giấy tờ chứng minh tư cách nhà báo không còn khả năng bảo chứng cho mỗi sản phẩm báo chí. Có một sự thật không thể nào phủ nhận, là nhiều nhà báo đã hứng thú xuất hiện trên Facebook và Youtube hơn là xuất hiện trên trang báo và trên ti vi. Vấn đề nan giải của Tổng Biên tập là làm sao dung hòa hai xu hướng, một bên với những nhà báo hành nghề bằng “cái đầu lạnh” và “trái tim nóng”, một bên với những nhà báo hành nghề bằng “phương tiện công nghệ” và “thuật toán câu view”. Chính các Tổng Biên tập cũng thừa khôn ngoan để hiểu rằng, những loại tin bài vuốt ve người giàu, mơn trớn kẻ mạnh và bám đuôi thị hiếu đang từng ngày giết chết những nhà báo đúng nghĩa!
Hiệp hội báo chí thế giới WAN sau khi sáp nhập Hiệp hội xuất bản thế giới IFRA để thành cái tên chung WAN – IFRA, vẫn liên tục đưa ra khuyến cáo cho các Tổng Biên tập, rằng “nội dung là vua”. Thế nhưng, vị “vua” kia thèm vị chua hay vị đắng, không dễ dàng nắm bắt để chiều chuộng theo một công thức hợp lý và khoa học. Báo chí cạnh tranh gay gắt, phủ nhận cả nguyên tắc cơ bản giữa “báo” và “chí”. Báo ngày lấn sang đề tài báo tuần, báo tuần lấn sang đề tài báo tháng, cứ thế mà nháo nhào mạnh được yếu thua cho đến lúc cái điện thoại thông minh và mạng xã hội chiếm lĩnh mọi mặt đời sống.
Các nhà báo lao theo “nội dung” mơ hồ, bỗng dưng trở thành những đối tượng “nghiện view” tội nghiệp. Nếu không có cơ hội dựa dẫm vào một nguồn tài chính nào, thì các Tổng Biên tập nao núng sẵn sàng ban hành mệnh lệnh hành động sốt ruột “hãy sốc và sốc hơn nữa, hãy sex và sex hơn nữa, hãy sến và sến hơn nữa”.
Kinh tế báo chí trước Covid-19 đã chật vật, mà sau Covid-19 càng thêm chật vật. Muốn tránh nguy cơ nhà báo phải đóng vai chuyên viên PR thời vụ hoặc chuyên viên quảng cáo hạng hai, báo chí chẳng còn con đường khác, ngoài việc xây dựng tính chuyên nghiệp bằng phép cộng thông tin chuyên biệt và góc nhìn chuyên sâu. Bài toán thông tin chuyên biệt có thể được giải quyết bằng một thị trường ngách, còn góc nhìn chuyên sâu mới thực sự là nỗi lo dài hạn. Góc nhìn chuyên sâu không thể có ở những người chẳng đặng đừng phải chọn nghề báo để mưu sinh.
Mặt khác, khái niệm “đa phương tiện” nảy sinh những nhà báo tay năm tay mười, vừa đạo diễn, vừa quay phim, vừa chụp ảnh, vừa viết bài, vừa uốn lượn xã giao, vừa đàm phán tài chính... Những sản phẩm báo chí theo tiêu chí thật nhanh và thật nhiều, khiến cá tính sáng tạo của mỗi nhà báo bị bào mòn và phong cách sáng tạo của mỗi nhà báo cũng bị phai nhạt. Không còn ai rảnh rỗi phân định ngôn ngữ báo viết và ngôn ngữ báo nói, ngôn ngữ báo mạng và ngôn ngữ báo hình. Hình ảnh những nhà báo hăm hở đi và viết, dần dần chìm trong quá khứ huy hoàng, như những hồi ức lộng lẫy và xót xa. Chỉ còn những bài báo na ná nhau, được viết bằng giọng điệu đong đưa và toan tính.
Một cứu cánh đang được chờ đợi của báo chí là sự phát triển loại hình báo điện tử có thu phí. Bạn đọc thay thì ung dung truy cập miễn phí, thì phải trả tiền để được tiếp cận những bài báo chất lượng cao. Nhiều tập đoàn truyền thông lớn trên thế giới đã khéo léo áp dụng và thu được kết quả khá khả quan. Tuy nhiên, vài tờ báo ở Việt Nam tiên phong thể nghiệm xu hướng tiến bộ kia, cũng chưa dám khẳng định đủ sức lấy “thu” bù “chi” mà không cần triển khai vài “tiểu xảo” linh động.
Báo chí Việt Nam được xác lập giá trị “diễn đàn xã hội” chứ không phải “sản phẩm tiêu dùng”. Trừ vài tờ báo vẫn ổn định nhờ cơ chế bao cấp, thì những tờ báo từng làm mưa làm gió trên thị trường cũng không còn khả năng duy trì số lượng phát hành để nuôi “quân”. Sau hai năm chống chọi Covid-19, hàng loạt tờ báo hoặc đình bản hẳn, hoặc co cụm lại. Nhân lực đích thực của nghề báo cứ mỏng dần và yếu dần, còn các loại “kền kền” mượn danh nhà báo để “đánh đấm” tứ tung thì nảy nở, để lâu lâu lại có vụ nhà báo bị bắt giữ vì hành vi tống tiền cá nhân và doanh nghiệp.
Lướt qua đại dịch Covid-19 là một cuộc chuyển nhịp nhọc nhằn của báo chí Việt Nam. Thẳng thắn mà nói với nhau, thì còn bao nhiêu thương hiệu hào hứng đăng quảng cáo trên báo chí vì hiệu quả truyền thông, hay chỉ vì quan hệ nể nang? Những “hợp đồng truyền thông” ngỡ là sự cộng sinh sòng phẳng, lại có màu sắc ám ảnh của sợi dây thòng lọng đầy ngọt ngào và man trá, đang thít chặt vuông đất hẹp vốn dành cho những thể loại báo chí đắc ý như “phóng sự” hoặc “điều tra”.
Điều đáng ái ngại nhất mà báo chí Việt Nam đang đối diện ở thập niên thứ hai của thế kỷ 21, không phải sự suy giảm kinh tế báo chí, mà là sự thưa vắng những cây bút có bản lĩnh. Các giải thưởng báo chí vẫn rất rộn ràng, nhưng có bao nhiêu bài báo xứng đáng để công chúng đọc lại? Dù muốn dù không, cũng phải chân thành mà nhắc nhở ngọn lửa đam mê nghề báo đang chập chờn trước cơn bão danh lợi.
Nếu không có sự đào tạo và sự đãi ngộ tương thích, thì tương lai báo chí Việt Nam sẽ khủng hoảng thiếu những cây bút được bạn đọc tin cậy. Hơn nữa, các cây bút sẽ rút khỏi làng báo khi có sân chơi khác để phô diễn và để phục vụ. Hiện nay, báo chí Mỹ đã nhen nhóm ngành công nghiệp tin tức dưới dạng độc giả đăng ký trả tiền để nhận bài viết của các nhà báo mà họ ưa chuộng được gửi thẳng vào hòm thư điện tử. Các nền tảng của Substack, Revue, Lede hoặc TinyLetter đang “tái định nghĩa ngành xuất bản” theo phương pháp “xây dựng một nền kinh tế truyền thông trao quyền tự chủ cho các nhà báo”.