| Hotline: 0983.970.780

Lại chuyện xà xẻo tiền lụt bão

Thứ Năm 20/10/2011 , 10:41 (GMT+7)

Khi số tiền tình nghĩa do đồng bào trong và ngoài nước chung tay góp sức được phân phát về đến xã Quỳnh Tân (Quỳnh Lưu, Nghệ An), nó đã bị "bốc hơi" một cách kỳ lạ.

Ông Mạch trước danh sách khống của xóm mình

Tháng 10/2010, cơn lũ lịch sử ở miền Trung, đẩy biết bao gia đình lâm vào cảnh đói ăn, thiếu mặc. Và nhân dân cả nước cùng kiều bào ở nước ngoài đã chung tay, góp sức, nhường cơm sẻ áo, hướng về miền Trung ruột thịt. Thế nhưng, khi số tiền tình nghĩa ấy được phân phát về đến xã Quỳnh Tân (Quỳnh Lưu, Nghệ An) đã bị " bốc hơi" một cách kỳ lạ.

LẤY TIỀN HỖ TRỢ CŨNG PHẢI NỘP THUẾ VAT

Ngày 19/9/2011, tại cuộc họp với Bí thư chi bộ và Xóm trưởng của toàn xã, UBND xã Quỳnh Tân công bố số tiền hỗ trợ thiệt hại do bão lũ đã phát cho 16 xóm. Vừa nghe xong số liệu này, hầu hết Bí thư các chi bộ đều thắc mắc khi thấy sự chênh lệch quá lớn so với số tiền mà các Xóm trưởng đã phân phát cho dân. Thậm chí có thôn số cấp phát về và số dân thực nhận lệch nhau tới hàng chục triệu đồng.

Ông Hồ Trọng Mạch, Phó Bí thư Chi bộ 11 chết lặng khi thấy danh sách tiền hỗ trợ của xóm 11 đã ký nhận tại UBND xã vào ngày 20/6/2011 chỉ có 200 hộ với tổng số tiền 52.500.000đ, trong lúc thực tế thôn 11 có 278 hộ và bà con chỉ được nhận tổng số tiền 24.100.000đ. Quá bức xúc, ông Mạch liền chất vấn Bí thư Đảng uỷ xã đề nghị làm rõ. Ngày 27/9/2011, Ban thanh tra nhân dân xã vào cuộc.

Khi bị thanh tra chất vấn về khoản tiền chênh lệch tới 31 triệu đồng, Xóm trưởng Nguyễn Hữu Nghĩa khai đợt I xóm 11 được nhận tại thủ quỹ xã 21.200.000đ. Đợt II nhận trực tiếp từ tay ông Tâm, Phó Chủ tịch xã 31.300.000 đ. Ông Nghĩa mới phát cho dân tổng cộng 24.100.000đ, số còn lại phải nộp thuế VAT 2.100.000đ. Nộp UBND xã 800.000đ phí…giao dịch? Số tiền còn lại hơn 25 triệu đồng đang nằm trong túi ông… chưa kịp phát(!?). Mãi tới sáng 12/10/2011, khi sự việc bùng xùng lan rộng, Xóm trưởng mới gọi tổ trưởng 7 tổ tự quản đến phát nốt số tiền còn lại.

Tại Chi bộ 6 lại có diễn biến khác, theo trình bày của ông Đậu Đức Yên, Bí thư chi bộ: Ông và Nguyễn Đình Thoại, Xóm trưởng được ông Nguyễn Thành Tâm, Phó Chủ tịch xã gọi lên đưa cho hai người 2.000.000đ tiền xăng xe trà nước nhưng ông Yên kiên quyết không nhận. Khi về ông hỏi Xóm trưởng lý do vì sao ông Thoại báo cáo xóm chỉ được hỗ trợ 12.300.000đ tiền lúa và 10.100.000đ tiền lạc mà trong danh sách xã cấp phát lại lên đến 37.720.000đ, số còn lại trên 15,3 triệu đồng để ở đâu?

Ông Thoại giải trình là đã nộp tiền thuế VAT 1.200.000 đ. Nộp cho UBND xã 600.000đ tiền giao dịch. Còn 10.720.000đ UBND xã đang “gửi” trên sổ sách mà không phát bằng tiền mặt. Mãi đến ngày 13/9/2011, UBND xã mới chi thêm cho xóm 6 số tiền 2.800.000đ để khớp tổng số tiền 37.720.000đ đã có trong danh sách.

CẦN LÀM RÕ VÀ XỬ LÝ NGHIÊM

Vụ việc nói trên hiện đang làm nhân dân xã Quỳnh Tân vô cùng bức xúc. Theo bản danh sách các thôn ký nhận tiền hỗ trợ do ông Nguyễn Thành Tâm, Phó Chủ tịch xã ký thì tổng số tiền hỗ trợ đã phân phát cho 16 xóm là 479.450.000 đ. Xóm được nhận ít nhất 20,95 triệu đồng (xóm 14), xóm được nhận nhiều nhất 43,5 triệu đồng (xóm 8).

Theo báo cáo của các xóm thì Xóm trưởng đều phải nộp các khoản như thuế VAT (GTGT), phí giao dịch, trừ tiền "gửi" trên sổ sách của xã… Vậy số tiền này hiện đang ở đâu? Chi cho khoản gì? Người dân Quỳnh Tân còn thực nhận được bao nhiêu? Vì sao ông Phó Chủ tịch xã lại phải tự tay phát trực tiếp tiền mặt cho Xóm trưởng?

Trước những khuất tất nói trên, UBND huyện Quỳnh Lưu cần nhanh chóng vào cuộc kiểm tra, làm rõ.

Danh sách 16 xóm được cấp phát tiền tại UBND xã Quỳnh Tân

Xóm 1: 22.450.000đ; Xóm 2: 21.900.000đ; Xóm 3: 27.200.000đ; Xóm 4: 27.500.000đ; Xóm 5: 24.000.000đ; Xóm 6: 37.720.000đ; Xóm 7: 23.000.000đ; Xóm 8: 43.500.000đ; Xóm 9: 35.030.000đ; Xóm 10: 37.620.000đ; Xóm 11: 52.500.000đ; Xóm 12: 29.350.000đ; Xóm 13: 23.000.000đ; Xóm 14: 20.950.000đ; Xóm 15: 26.000.000đ; Xóm 16: 25.730.000 đ.

Xem thêm
Việt Nam chưa đủ thông tin đánh giá tác động của dự án Funan Techo

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định Việt Nam chưa đủ thông tin để có thể đánh giá tác động của dự án Funan Techo.

Bắc Kạn cần hướng đến sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững

FAO tại Việt Nam đánh giá, các hợp tác xã, tổ hợp tác tại tỉnh Bắc Kạn đã cải thiện năng lực tổ chức sản xuất, có nhiều mô hình hiệu quả, thân thiện với môi trường.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

Cựu binh Đồi A1 & ký ức 'máu trộn bùn non'

Tròn 70 chiến thắng Điện Biên Phủ nhưng những đồng đội, những nắm cơm, những chiến hào 'máu trộn bùn non'… vẫn còn mãi trong tâm trí nhà giáo ưu tú Đỗ Ca Sơn.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm