| Hotline: 0983.970.780

3 giống khoai tây mới

Thứ Ba 31/03/2020 , 09:34 (GMT+7)

Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Cây có củ đã chọn tạo thành công 3 giống khoai tây mới, được Bộ NN-PTNT công nhận, cho sản xuất thử từ tháng 8/2019.

Khoai tây KT6 năng suất cao.

Khoai tây KT6 năng suất cao.

1.  Giống khoai tây KT6

Nguồn gốc, giống KT6 được lai tạo và chọn lọc từ tổ hợp Solara x 47 năm 2012, mã số 10, dòng chọn được là dòng 167.

Đặc điểm chính, thời gian sinh trưởng ngắn 75-80 ngày, khả năng sinh trưởng phát triển tốt, chiều cao cây trung bình 50-55 cm, dạng cây đứng, lá màu xanh nhạt.

Nhiễm nhẹ một số sâu bệnh hại chính như (rệp, nhện, bọ trĩ, bệnh đốm lá, héo xanh), nhiễm nhẹ mốc sương nhờ mang gen kháng bệnh mốc sương R1 (được sàng lọc bằng chỉ thị phân tử liên kết với gen kháng bệnh mốc sương BA213c14t7 hay LP2). Số củ/khóm từ 6-8 củ. Năng suất đạt cao (21-25 tấn/ha).

Dạng củ hình oval, mắt nông, vỏ củ màu vàng, ruột củ màu vàng đậm. Hàm lượng chất khô 19-20%, hàm lượng đường khử 0,5%, hàm lượng tinh bột 16-17%, phù hợp cho nhu cầu ăn tươi.

2. Giống khoai tây Jelly

Nguồn gốc, giống Jelly được nhập nội từ Đức thuộc Công ty EuroPlant Germany, bố mẹ là: Marabel x 173/87/4476.

Đặc điểm chính, sinh trưởng phát triển tốt, thời gian sinh trưởng 85-90 ngày, dạng cây nửa đứng, củ hình oval dài, mắt nông, vỏ củ vàng, ruột củ vàng, số củ/cây trung bình (6-7 củ).

Nhiễm nhẹ một số sâu bệnh hại chính (mốc sương, héo xanh, virus, rệp, nhện và bọ trĩ), chống chịu tốt virus Y (PVY), chống chịu trung bình virus (PLRV). Tiềm năng năng suất rất cao, tỷ lệ củ to (Ø > 5cm) nhiều.

Tỷ lệ chất khô đạt 18-20%. Hàm lượng đường khử > 0,5%. Tỷ lệ tinh bột > 16%. Chất lượng ăn ngon, là giống phục vụ ăn tươi.

3. Giống khoai tây KT7

Nguồn gốc, giống khoai tây KT7 (4-170) được chọn tạo từ tổ hợp lai KT3 x 106 năm 2012, mã số 04 và dòng chọn được là dòng số 170. Giống KT7 mang gen kháng bệnh mốc sương R1 (được sàng lọc bằng chỉ thị phân tử liên kết với gen kháng bệnh mốc sương BA213c14t7 hay LP2).

 

4. Kỹ thuật canh tác cơ bản

Chọn củ giống sạch bệnh, trẻ về tuổi sinh lý, kích cỡ 25-40 củ/1kg.

Đất trồng cần bằng phẳng, màu mỡ, tơi xốp, tầng canh tác dày và chủ động tưới tiêu

Thời vụ: ở đồng bằng sông Hồng trồng từ 20/10-10/11.

Làm đất nhỏ, thu gom rơm rạ và cỏ dại, luống trồng hàng đơn rộng 60-70cm, khoảng cây 25-30cm, luống trồng hàng đôi rộng 120-140cm, cao 25cm, hàng cách hàng 35-40cm, cây cách cây 25-30cm.

Phân bón/1 sào 360 m2: Phân chuồng hoai mục 600 kg, Đạm urê 12kg, Lân Supe 35kg,  Kali Cloarua 9kg.

Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân cùng 1/2 lượng đạm và 1/2 lượng kali.

Bón thúc hết số phân còn lại khi cây cao khoảng 15cm, kết hợp vun xới lần 1. Vun xới lần 2 (vun cao tạo vồng) sau lần 1 từ 15-20 ngày. Tưới nước giữ ẩm đất thường xuyên đạt 75-80% sức giữ ẩm đồng ruộng. Từ sau cây khoai 70-75 ngày tuổi, tuyệt đối không tưới nước, nếu có mưa phải tháo kiệt ngay.

Mật độ trồng 1.600-1.800 củ/sào (50-60kg).

Kỹ thuật trồng: Rạch hàng, bón lót phân, lấp đất phủ kín phân, đặt củ giống, phủ lớp đất dầy 3-5cm lên củ giống và vét rãnh lên luống.

Phòng trừ sâu bệnh:

Bệnh virus xoăn lùn, cuốn lá hay khảm lá: nhổ bỏ cả cây và củ bị bệnh đem đi tiêu huỷ.

Bệnh héo xanh (héo rũ): sử dụng giống sạch bệnh, luân canh khoai tây với lúa n­ước, không bón phân tư­ơi, nhổ bỏ toàn bộ cây bệnh và tiêu huỷ.

Bệnh mốc sư­ơng:  Sử dụng giống sạch bệnh. Dùng thuốc Zinep 80WP, Ridomil Mancozep 68WP, Pegasus... Phun sớm cả cánh đồng trồng khoai ngay khi ổ dịch đầu tiên xuất hiện.

Thu hoạch khi thấy lá vàng và cây rạc dần. Thu củ vào ngày khô ráo. Phân loại cỡ củ ngay tại ruộng.

Thu hoạch khoai tây giống mới.

Thu hoạch khoai tây giống mới.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm