| Hotline: 0983.970.780

Cần những cú hích quyết liệt và đột phá cho miền núi

Thứ Năm 01/08/2019 , 08:55 (GMT+7)

Thời gian qua, các chương trình, chính sách đối với đồng bào dân tộc thiếu số (DTTS) và miền núi luôn được các cấp, ngành triển khai kịp thời, đúng đối tượng, mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho vùng đồng bào DTTS, vùng đặc biệt khó khăn...

Triển khai các chương trình, chính sách

Giai đoạn 2016 - 2018, Bộ LĐ-TB&XH đã chỉ đạo triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ, phát triển giáo dục nghề nghiệp cho người DTTS; góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng DTTS và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn.

17-36-09_bo_truong_do_ngoc_dung
Ông Đào Ngọc Dung (phải), Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH.

Trong 3 năm 2016 - 2018 ngân sách Trung ương bố trí 1.742 tỷ đồng đào tạo nghề cho lao động nông thôn (Chương trình MTQG xây dung NTM); đã hỗ trợ cho trên 800 nghìn người DTTS học nghề các cấp trình độ; trong đó, khoảng 412 nghìn lao động nông thôn là người DTTS được hỗ trợ đào tạo trình độ sơ cấp theo chính sách của Đề án 1956/QĐ-TTg (chiếm 21,8% số lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề trong cả nước). Tỷ lệ lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề có việc làm sau đào tạo đạt gần 80%.

Về giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho vùng đồng bào DTTS, miền núi, Bộ LĐ-TB&XH đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 327/QĐ-TTg ngày 22/3/2018 phân bổ nguồn vốn bổ sung Quỹ quốc gia về việc làm từ tiền lãi cho vay, phân bổ 35,161 tỷ đồng nguồn vốn bổ sung Quỹ quốc gia về việc làm từ tiền lãi cho vay cho 3 tổ chức thực hiện chương trình và 11 tỉnh, trong đó ưu tiên các địa phương có đông đồng bào DTTS.

Giai đoạn 2016 - 2018, tổng nguồn vốn của Quỹ quốc gia về việc làm đạt trên 4.453 tỷ đồng, doanh số cho vay hằng năm từ 2.200 - 2.500 tỷ đồng, đã hỗ trợ tạo việc làm cho trên 357 nghìn lao động mỗi năm (trong đó người lao động là người DTTS chiếm khoảng 5%).

Bên cạnh đó, tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ người lao động là người DTTS đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hướng dẫn, giới thiệu DN về các địa phương tuyển chọn lao động để đi làm việc ở Malaysia, các nước Trung Đông và Hàn Quốc. Giai đoạn 2016 - 2020 đã có 4.620 người thuộc các huyện nghèo, đã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển được hỗ trợ để đi làm việc ở nước ngoài (trong đó 2.117 lao động đã xuất cảnh).

Công tác bảo trợ xã hội, bảo vệ, chăm sóc trẻ em và bình đẳng giới đã được thực hiện đầy đủ, kịp thời, như chính sách trợ cấp xã hội hàng tháng, trợ cấp đột xuất cho đối tượng bảo trợ xã hội. Hiện nay tổng số đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội của 4 khu vực có đông đồng bào DTTS sinh sống (Tây Bắc, Bắc Trung bộ, Tây Nguyên, Tây Nam bộ) là 1.256.192 đối tượng.

Công tác phòng, chống tệ nạn xã hội ở vùng đồng bào DTTS và miền núi cũng là một vấn đề đáng lo ngại. Theo Bộ LĐ-TB&XH, có 15,25% người nghiện ma túy đang cai nghiện tại các cơ sở cai nghiện trên cả nước là người dân tộc, trong đó đại đa số người nghiện thuộc hộ nghèo.

Nói một cách khách quan, những vấn đề liên quan đến đồng bào DTTS và miền núi đã có sự thay đổi mạnh mẽ. Những người nghèo, người DTTS đã được thụ hưởng khá đầy đủ những thành quả của sự nghiệp đổi mới.

Bên cạnh đó, hiện có 28 tỉnh, TP xây dựng dựng kế hoạch cai nghiện tại gia đình, cai nghiện tại cộng đồng; có 6 tỉnh, TP tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng cho 4.320 người nghiện; quản lý sau cai nghiện tại nơi cư trú cho 23.600 người sau cai nghiện.
 

Khó khăn và hạn chế

Có thể nhận thấy các chính sách pháp luật về việc làm đối với đồng bào DTTS còn dàn trải, thiếu đồng bộ và thường bị lồng ghép chung với với chính sách giảm nghèo và giáo dục nghề nghiệp. Vẫn có sự trùng lặp về cơ chế, đối tượng dẫn đến sự khó khăn trong lồng ghép và triển khai cho địa phương.

Ngoài ra, hiệu quả tạo việc làm cho đồng bào DTTS chưa cao. Các dự án cho vay vốn tạo việc làm chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, làm tăng thêm thời gian lao động. Chất lượng việc làm thấp, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp… cũng như phong tục, tập quán của các đồng bào dân tộc còn có hạn chế nhất định nên khó tiếp cận các dịch vụ việc làm, nhất là đi làm việc ở nước ngoài.

5143131507
Nhiều chính sách dân tộc đã đi vào cuộc sống, góp phần phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Ảnh: Lê Hoàng.

Mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở vùng đồng bào DTTS, vùng khó khăn còn mỏng và chưa tạo thuận lợi cho người DTTS tham gia học nghề và chuyển đổi nghề. Nhiều địa phương chưa chú trọng tuyên truyền, tư vấn, vận động người DTTS học nghề; hỗ trợ tìm kiếm việc làm, hướng dẫn vay vốn sau đào tạo và hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm.

Kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu – nghèo chưa được thu hẹp, nhất là khu vực miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, nhưng nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn cao, hộ nghèo DTTS chiếm tỷ trọng lớn tổng số hộ nghèo của cả nước.

Tệ nạn nghiện ma túy vẫn đang là vấn đề bức xúc của vùng đồng bào DTTS, là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng đói nghèo cao. Chất lượng cai nghiện tại các địa phương còn hạn chế; việc cai nghiện tại cộng đồng chưa hiệu quả…

“Nếu không có những cú hích mang tính chất quyết liệt và đột phá thì đừng bao giờ hi vọng miền núi bắt kịp miền xuôi. Phải làm sao để khoảng cách giữa 2 vùng rút ngắn dần đi và vùng khó khăn được lớn nhanh hơn”, ông Đào Ngọc Dung - Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH.

Xem thêm
Gần 6.400 hộ dân huyện Trạm Tấu ký cam kết bảo vệ rừng

YÊN BÁI Các vụ cháy rừng ở Trạm Tấu chủ yếu do bất cẩn của người dân khi xử lý thực bì bằng lửa, vì vậy việc đốt nương làm rẫy đang được quản lý chặt chẽ.

Trồng 33.000 cây xanh tại Vườn quốc gia Xuân Sơn

Các đơn vị trồng mới 33.000 cây, trong đó 3.000 cây bản địa (cây mỡ) và 30.000 cây keo tại vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn.

Cứu hộ thành công cá thể gấu ngựa bị cụt chi trước

HÀ NỘI Từ đầu năm 2024 đến nay, Chi cục Kiểm lâm thành phố Hà Nội đã bàn giao 5 cá thể gấu cho Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm