Góc nhìn người trong cuộc
Thông tin được ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) đưa ra tại Diễn đàn CEO “Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thủy sản – Góc nhìn người trong cuộc” tổ chức ngày 23/6 tại TP Cần Thơ.
Theo thống kê của VASEP, tính đến giữa quý 2/2022, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã đạt gần 4 tỷ đô la Mỹ, tăng trưởng hơn 44% so với cùng kỳ năm 2021. Trong đó, mặt hàng tôm và cá tra có mức tăng trưởng cao, được thị trường nhập khẩu ưa chuộng. Đây là dấu hiệu tích cực cho thấy ngành thủy sản đang dần phục hồi sau đại dịch Covid-19 và tăng trưởng xuất khẩu trở lại.
Ở góc nhìn tích cực, ông Nam nhấn mạnh, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã đạt được những kết quả tốt, những khu vực, thị trường xuất khẩu lớn có sự tăng trưởng ấn tượng. Nguyên nhân của sự tăng trưởng này được ông Nam chỉ ra là sự mở cửa của hầu hết các thị trường xuất khẩu (trừ Trung Quốc), lượng nguyên liệu tồn kho, dự trữ từ cuối 2021 kéo sang những tháng đầu năm 2022. Đặc biệt nhiều doanh nghiệp đã ký kết được các hợp đồng từ cuối năm 2021 đã thúc đẩy giá xuất khẩu tăng. Bên cạnh đó, lợi thế về thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do đã góp phần tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Với tốc độ tăng trưởng và bối cảnh cung – cầu hiện nay, dự báo xuất khẩu thủy sản năm 2022 sẽ đạt 9,5 – 10 tỷ đô la Mỹ. Tuy nhiên, theo đánh giá của các cơ quan quản lý nhà nước và chuyên gia trong ngành, vẫn còn nhiều thách thức cho xuất khẩu thủy sản trong những quý cuối năm và trong thời gian tới.
5 thách thức được ông Nam chỉ ra là nguyên liệu, nhập khẩu, chứng nhận khai thác, thị trường Trung Quốc, quy định trách nhiệm môi trường. Ông phân tích, sự khan hiếm nguồn nguyên liệu không đảm bảo cho thị trường xuất khẩu, sự gia tăng cước phí tàu biển và các chi phí đầu vào tăng. Tại các thị trường lớn đang tiếp tục tăng cường kiểm soát các yếu tố an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc. Song song với những cơ hội gia tăng xuất khẩu nhờ những ưu đãi thuế quan, các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với vấn đề tăng cường kiểm soát vấn đề an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc từ các thị trường lớn.
Hơn nữa, hiện nay chế biến thủy sản gắn chặt với yếu tố môi trường. Thế nhưng các nhà máy chế biến thủy sản đang thực hiện quy định môi trường đồng thời cùng với các ngành công nghiệp khác như than, sắt, xi măng, chưa có quy định đặc thù riêng cho ngành thủy sản. Vấn đề này cũng đang trở thành trở ngại cho doanh nghiệp thủy sản.
Liên quan đến vấn đề logistics trong ngành thủy sản, ông Võ Hùng Dũng, nguyên Giám đốc VCCI Cần Thơ xác định, ngành logistic hiện nay còn yếu. Theo quan điểm của ông Dũng, để nâng cấp chuỗi giá trị bền vững, đòi hỏi phải có nhiều nguồn lực hơn từ quốc gia cải thiện cơ sở hạ tầng, con giống, đầu vào, nghiên cứu ứng dụng, hiệu quả logistics. “Không doanh nghiệp riêng lẻ nào, kể cả nhóm doanh nghiệp có thể làm được những việc lớn, tốn kém, đòi hỏi tính đồng bộ, phối hợp cao, trừ khi có nhà nước, với sự hỗ trợ, các chương trình đầu tư nâng cấp và chính sách khi tình hình quá khó khăn”, ông Dũng cho biết.
Cần phải tính toán những kịch bản sâu
Việc đứt gãy chuỗi cung ứng, chi phí logistics tăng cao đặt ra vấn đề rất lớn cho hệ thống kho bảo quản, nhất là khi xuất khẩu ngày càng tăng nhu cầu đầu tư ngày càng cao.
Ông Trần Nguyễn Hoàng Phú, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thủy sản Sóc Trăng (Stapimex), một doanh nghiệp xuất khẩu tôm quy mô lớn tại ĐBSCL chia sẻ khó khăn mà hai năm qua doanh nghiệp này gặp phải khi hệ thống kho bảo quản chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.
“Mấu chốt của ngành tôm là sản xuất chưa ổn định, có thời điểm chế biến chỉ bằng một phần ba so với lúc cao điểm. Việc đầu tư kho bảo quản thời gian trước chỉ tính đến việc làm sao để đảm bảo lượng tồn kho. Sau này, biến động thị trường quá lớn, thời điểm dịch Covid-19 bùng phát các nước nhập khẩu ngưng ngay không nhập, chậm trễ 3 – 4 tháng. Lúc đó hàng hóa doanh nghiệp sản xuất ra không có chỗ tồn. Do vậy bài toán lưu kho không còn như trước nữa”, ông Phú chỉ ra.
Để giải quyết vấn đề liên quan đến kho bảo quản, theo ông Phú, doanh nghiệp thủy sản nói riêng và doanh nghiệp xuất khẩu nói chung cần phải tính toán những kịch bản sâu, dự đoán cả những biến cố, thiên tai có thể xảy ra trong 5 – 10 năm tới khi đầu tư hệ thống kho bảo quản.