| Hotline: 0983.970.780

Chính sách lâm nghiệp đi vào cuộc sống

Thứ Năm 27/09/2012 , 10:44 (GMT+7)

Chi trả dịch vụ môi trường rừng là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước được thực hiện thí điểm theo Quyết định số 380/2008/QĐ-TTg tại 2 tỉnh Sơn La và Lâm Đồng.

Chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước được thực hiện thí điểm theo Quyết định số 380/2008/QĐ-TTg tại 2 tỉnh Sơn La và Lâm Đồng.

Sau 2 năm thí điểm thành công, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 về thực hiện chi trả DVMTR trên phạm vi cả nước. Đến nay, sau 2 năm thực hiện, chính sách này đang dần đi vào cuộc sống.

Từ khi Nghị định số 99/2010/NĐ-CP được thực hiện, đến nay đã có 3 Thông tư hướng dẫn được ban hành nhằm tháo gỡ những khó khăn, tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong quá trình thực hiện chính sách. Đó là các Thông tư số 80/2011/TT-BNNPTNT ngày 23/11/12011 hướng dẫn phương pháp xác định tiền chi trả DVMTR, Thông tư số 20/2010/TT-BNNPTNT ngày 07/5/2012 hướng dẫn trình tự thủ tục nghiệm thu thanh toán tiền chi trả DVMTR, Thông tư số 85/2012/TT-BTC ngày 25/5/2012 hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với Quỹ bảo vệ và phát triển rừng.

Dự kiến từ nay đến cuối năm 2012, Bộ NN-PTNT, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục phối hợp ban hành 2 thông tư hướng dẫn về cơ chế quản lý, sử dụng tiền chi trả DVMTR và nguyên tắc, phương pháp xác định diện tích rừng trong lưu vực phục vụ chi trả DVMTR.

Bên cạnh đó, một hệ thống các quỹ từ trung ương đến địa phương cũng đã được hình thành và đi vào hoạt động ổn định. Ngoài Quỹ bảo vệ & phát triển rừng VN, đến nay đã có 21/35 tỉnh thành lập, vận hành Quỹ BV&PTR cấp tỉnh. Đây là điều kiện tiên quyết để đàm phán, ký kết hợp đồng ủy thác chi trả DVMTR với các nhà máy thủy điện, Cty cung cấp nước sạch… và tiếp nhận nguồn thu DVMTR.

Theo báo cáo của Quỹ BV&PTR VN, tính đến hết tháng 8/2012, quỹ đã ký kết được 22 hợp đồng và thu được 447 tỷ đồng từ các đơn vị sử dụng DVMTR thực hiện chi trả theo hình thức gián tiếp. Trong số các tỉnh đã thành lập Quỹ BV&PTR thì Lâm Đồng, Đắk Nông, Lào Cai, Lai Châu, Nghệ An là những tỉnh đi đầu.

Một số tỉnh dự kiến có nguồn thu từ DVMTR năm 2012 có thể đạt rất cao như Lâm Đồng (95,4 tỷ đồng), Đắk Nông (40 tỷ đồng), Lai Châu (140 tỷ đồng). Riêng tỉnh Nghệ An, chỉ riêng trong tháng 8/2012 đã thu ủy thác từ nhà máy thủy điện Bản Vẽ 14 tỷ đồng của quý I, II/2011 và 2012.

Ông Lê Văn Quang, GĐ Quỹ BV&PTR Đắk Nông cho biết, việc triển khai thực chính sách chi trả DVMTR trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, các hoạt động hội thảo, tuyên truyền bằng nhiều hình thức đã góp phần nâng cao nhận thức của xã hội, tạo sự đồng thuận và nhất trí cao trong nhân dân.

Trong buổi làm việc mới đây giữa Quỹ BV&PTR VN (VNFF) và Tập đoàn Điện lực VN (EVN), ông Đinh Quang Tri, Phó tổng giám đốc EVN cam kết, EVN sẽ chuyển trả dứt điểm tiền DVMTR năm 2011 trong quý III/2012. Đối với tiền DVMTR năm 2012 sẽ tiếp tục được chuyển trả theo quy định. EVN cũng chỉ đạo các đơn vị trực thuộc nộp đúng, đủ và kịp thời số tiền chi trả DVMTR.

Hiệu ứng của việc thực hiện chính sách chi trả DVMTR không những nâng cao ý thức trách nhiệm của chủ rừng, hộ nhận khoán bảo vệ rừng mà còn huy động được một nguồn lực rất lớn cho công tác tuần tra bảo vệ rừng một cách thường xuyên. Thực hiện chính sách chi trả DVMTR cùng với các chính sách đầu tư hỗ trợ khác của nhà nước đã góp phần tích cực hỗ trợ xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống người dân nông thôn, miền núi.

Ông Phạm Hồng Lượng, Phó GĐ Quỹ BV&PTR VN cho biết, trong quá trình thực hiện chính sách còn một số vướng mắc như việc thiếu các văn bản pháp lý làm căn cứ hướng dẫn, sự nhận thức của các cấp, các ngành địa phương chưa đầy đủ, còn lúng túng trong triển khai. Nhiều địa phương thiếu nguồn lực tài chính để bố trí triển khai thực hiện các đề án, dự án liên quan đến chi trả DVMTR; đặc biệt là thiếu nguồn lực trong việc rà soát, xác định diện tích rừng trong các lưu vực và xác định ranh giới, diện tích rừng...

Để chính sách thực sự đi vào cuộc sống rất cần sự đồng thuận, phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành nhất là trong việc ban hành các văn bản pháp lý hướng dẫn thực hiện chi trả DVMTR, đồng thời cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, bố trí nguồn nhân lực đầy đủ và nguồn tài chính hỗ trợ ban đầu kịp thời cho Quỹ BV&PTR cấp tỉnh.

Xem thêm
Nghệ An: Tôm chết hàng loạt, nghi do bệnh mới

Tôm chết nhiều trên diện tích khoảng 25ha, trong đó phần đa xuống giống chưa được bao lâu. Đây là hồi chuông báo động đối với nghề hoàng kim một thời ở Nghệ An.

Điều động 1 kíp tàu tuần tra, phòng chống khai thác IUU

Từ ngày 22/4, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu điều động 1 kíp tàu tuần tra, kiểm soát kết hợp tuyên truyền phòng, chống khai thác IUU trên vùng biển do đơn vị quản lý.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm