Ngày 3/4, Cục Bảo vệ thực vật (BVTV) nhận công hàm của Tổng cục Hải quan Trung Quốc (GACC) thông báo về kết quả kiểm tra trực tuyến doanh nghiệp khoai lang Việt Nam xuất khẩu sang thị trường nước này. Theo đó, 70 vùng trồng và 13 cơ sở đóng gói khoai lang đã được cấp phép.
Báo Nông nghiệp Việt Nam có cuộc trao đổi với ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục BVTV, nhằm làm rõ những nội dung sẽ triển khai thời gian tới để tận dụng tối đa điều kiện này.
Rất nhiều diện tích khoai lang trong nước chuẩn bị bước vào vụ thu hoạch chính. Việc Trung Quốc cấp phép xuất khẩu cho 70 vùng trồng và 13 cơ sở đóng gói Việt Nam có ý nghĩa như nào trong việc thúc đẩy, phát triển chuỗi ngành hàng này, thưa ông?
Trước hết phải nói là, trong nhiều năm qua Việt Nam và Trung Quốc đã có nhiều hợp tác thúc đẩy giao thương nông sản, trong đó có ký kết chính thức các nghị định thư phục vụ cho việc xuất khẩu những mặt hàng chủ lực.
Vào ngày 9/11/2022, Bộ NN-PTNT và GACC ký thêm một nghị định thư nữa về yêu cầu kiểm dịch đối với sản phẩm khoai lang. Đây là cú hích quan trọng, góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường tiềm năng bậc nhất thế giới.
Hiện diện tích trồng khoai lang trên cả nước khoảng 100.000 ha, với tổng sản lượng từ 1,2-1,3 triệu tấn. Có thể khẳng định, Việt Nam rất dồi dào sản lượng để xuất khẩu đối với mặt hàng khoai lang.
Là cơ quan đầu mối về hướng dẫn thủ tục, kiểm dịch thực vật và đàm phán mở cửa thị trường nông sản, Cục BVTV đã triển khai nhiều giải pháp tích cực, đồng bộ ngay sau khi nghị định thư được ký. Trước hết, Cục đã phối hợp GACC để cùng chuẩn bị một số điều kiện phục vụ cho công tác xuất khẩu, trong đó có nộp danh sách các hồ sơ về vùng trồng, cơ sở đóng gói khoai lang để phía bạn xem xét. Đồng thời, Cục đã họp bàn và lên kế hoạch kiểm tra trực tuyến với những đơn vị đủ điều kiện, tiêu chuẩn xuất khẩu sắp tới.
Từ ngày 7/3, Cục Bảo vệ thực vật và GACC đã cùng kiểm tra một loạt cơ sở trong danh sách. Đến 3/4, GACC đã gửi công hàm chính thức thông báo kết quả đánh giá trực tuyến. Theo đó, 13 cơ sở đóng gói và 70 vùng trồng đã được cấp phép. Điều ấy lập tức đặt ra những đòi hỏi cấp thiết khi mà khoai lang sắp vào chính vụ.
Cụ thể, là đồng hành, hướng dẫn cơ quan chuyên môn tại địa phương trong việc tuyên truyền, phổ biến, tổ chức sản xuất sao cho bài bản, bền vững. Đây không phải nhiệm vụ một sớm một chiều mà cần được thực hiện liên tục, tránh những sơ suất không đáng, có thể dẫn đến hệ lụy cho cả ngành hàng.
Phải nói thêm, là trong đợt kiểm tra vừa qua của GACC, 10/23 cơ sở đóng gói của chúng ta không đạt. Tồn tại này cần được tháo gỡ trong thời gian sớm nhất, để các chủ sở hữu cũng như đơn vị liên quan xác định rõ nguyên nhân và tìm cách khắc phục để hoàn thiện lại hồ sơ kỹ thuật. Trong quá trình này, Cục BVTV sẽ nhấn mạnh vấn đề: Nếu không đạt tiêu chuẩn, hàng hóa sẽ lập tức quay đầu. Ngoài ra, những cơ sở vi phạm có thể bị tạm ngừng xuất khẩu.
Đạt được thỏa thuận xuất khẩu khoai lang hay bất cứ nông sản nào ra nước ngoài, đó vừa là thời cơ vừa là thách thức cho những người làm nông nghiệp. Trong bối cảnh nhiều mặt hàng xuất khẩu chính của ngành có giá trị giảm so với cùng kỳ năm trước, khiến giá trị kim ngạch xuất khẩu quý I/2023 ước đạt 11,19 tỷ USD, giảm 14,4%, khoai lang có thể trở thành cứu cánh, giúp toàn ngành tăng tốc trở lại trong quý II tới đây.
Vừa qua, Bộ NN-PTNT có văn bản hướng dẫn việc cấp, quản lý mã số vùng trồng theo hướng phân cấp mạnh về địa phương. Với mặt hàng có thời vụ ngắn như khoai lang, Cục BVTV dự định triển khai những hỗ trợ, hướng dẫn gì để địa phương tận dụng tốt nhất cơ hội sắp tới?
Để một ngành hàng phát triển bền vững, từ cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, người sản xuất cùng phải thấy được trách nhiệm của mình. Với địa phương, rõ ràng thêm một mặt hàng xuất khẩu sẽ đòi hỏi phải bố trí thêm nguồn lực, đặc biệt là cán bộ kỹ thuật khi cùng tham gia vào khâu kiểm tra, giám sát một cách liên tục.
Với doanh nghiệp, họ vừa phải hỗ trợ đối với các vùng trồng, HTX, người dân trong chuỗi, vừa đảm bảo hồ sơ, đăng ký đúng quy định của GACC. Hơn lúc nào hết, doanh nghiệp trong nước cần xây dựng, hình thành những mối liên kết bền vững cả trong nước lẫn quốc tế. Họ nên ký nhiều hơn những hợp đồng dài hạn, thậm chí hợp đồng lớn với đối tác để tạo nhu cầu lâu dài, giúp người sản xuất yên tâm canh tác.
Với người sản xuất, bao gồm cả lao động trực tiếp, vấn đề về đạo đức kinh doanh được đặt ra. Chúng ta không thể chỉ chuẩn hóa trên giấy mà cần cụ thể hóa bằng hành động thiết thực, chẳng hạn tách bạch giữa hàng hóa đã được đóng gói và hàng hóa mới được đưa về. Những việc làm dù nhỏ nhưng qua thời gian sẽ thay đổi đáng kể nhận thức của đại bộ phận người dân.
Về phía Cục BVTV, chúng tôi đã chuẩn bị kỹ các phương án cho ngày đón container khoai lang đầu tiên xuất khẩu sang Trung Quốc. Thứ nhất, Cục đã gửi văn bản thông báo tới các địa phương để họ chủ động thông tin cho chủ sở hữu mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói. Từ đó, những cơ sở này sẽ lập kế hoạch và chuẩn bị mọi điều kiện theo yêu cầu của Trung Quốc để kịp thời xuất khẩu trong vòng một tháng nữa.
Thứ hai, Cục đã lập kế hoạch và cam kết sớm tổ chức những lớp tập huấn hướng dẫn về các điều kiện cụ thể cho mã số vùng trồng, cũng như một số yêu cầu kỹ thuật liên quan. Đối tượng tập huấn là chủ các mã số, cán bộ chuyên môn ở địa phương để tất cả cùng kiểm tra, giám sát, cùng chung tay để thực hiện đúng, đủ các yêu cầu kiểm dịch trước khi đưa hàng lên cửa khẩu.
Thứ ba, chúng tôi đã gửi văn bản truyền tải toàn bộ thông tin liên quan đến mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói khoai lang cho các chi cục kiểm dịch thực vật vùng, các trạm kiểm dịch thực vật để kịp thời nắm bắt, kiểm tra, kiểm soát theo quy trình mà Việt Nam đã cam kết trong nghị định thư. Phải tìm mọi cách để bảo đảm các lô khoai lang tươi xuất sang Trung Quốc có đầy đủ chứng thư kiểm dịch thực vật, thông tin về vùng trồng, cơ sở đóng gói, đồng thời đáp ứng về vệ sinh, an toàn thực phẩm như phía bạn yêu cầu. Trong đó, đặc biệt là không nhiễm các đối tượng sinh vật gây hại mà Trung Quốc quan tâm.
Thứ tư, những hình thức tuyên truyền, phổ biến cho đối tượng liên quan sẽ được xây dựng sinh động, trực quan và có tính lan tỏa. Đây cũng định hướng giúp mọi chủ thể trong chuỗi ngành hàng khoai lang nâng cao tinh thần trách nhiệm như: doanh nghiệp xuất khẩu chỉ thu mua nguyên liệu từ những vùng đã được cấp mã số, hoặc quy cách đóng gói bao bì, in nhãn, mác, ghi thông tin phải chuẩn xác và truy xuất được nguồn gốc. Những hoạt động này sẽ góp phần giúp cơ quan quản lý giảm thời gian kiểm dịch, tăng tốc độ thông quan tại cửa khẩu - một yếu tố vô cùng quan trọng khi xuất khẩu mặt hàng tươi.
Thứ năm, Cục BVTV tiếp tục đôn đốc địa phương là đi kiểm tra, giám sát tình hình sản xuất theo đúng tình trạng thực tế. Sau đó, gửi danh sách để Cục tổng hợp nhu cầu về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói trên cả nước, tạo cơ sở trước khi đàm phán với GACC.
Xin cảm ơn ông!