Hợp phần Bảo tồn đa dạng sinh học thuộc Dự án Quản lý rừng bền vững và Bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC) do Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) tài trợ đã công bố kết quả điều tra bằng bẫy ảnh lớn nhất từ trước đến nay tại Việt Nam.
Tham dự buổi công bố có Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Nguyễn Quốc Trị, ông Bradley Bessire, Phó Giám đốc USAID Việt Nam và ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cùng đại diện các tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam.
Theo nhận định của các chuyên gia bảo tồn thuộc Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF- Việt Nam), đây là đợt khảo sát về đa dạng sinh học bằng bẫy ảnh hệ thống và toàn diện nhất từng được thực hiện tại Việt Nam để giám sát tính đa dạng sinh học và độ che phủ của rừng. Kết quả điều tra cho thấy quần thể của nhiều loài động vật rừng quan trọng không được ghi nhận và có thể đã suy giảm do việc bẫy bắt vẫn phổ biến.
Ông Bradley Bessire, Phó Giám đốc USAID Việt Nam cho biết, đơn vị rất vui mừng hợp tác với Bộ NN-PTNT và các ban quản lý rừng trong 2 năm qua để thực hiện cuộc điều tra cơ bản về đa dạng sinh học bằng bẫy ảnh lớn nhất từ trước đến nay tại khu vực Đông Nam Á.
“Chúng tôi hy vọng kết quả điều tra đa dạng sinh học bằng bẫy ảnh sẽ được sử dụng để cung cấp thông tin và cải thiện việc quản lý toàn diện tại các khu bảo tồn, từ đó góp phần thúc đẩy những chính sách phù hợp ở Việt Nam”, ông Bradley Bessire nói.
Để tiến hành điều tra, dự án đã thiết lập 1.176 điểm bẫy ảnh tại 21 khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ trên địa bàn 8 tỉnh thành. 120.000 hình động vật được chụp trong hàng triệu hình ảnh mà bẫy ảnh chụp được trong khoảng thời gian 2019-2023.
Đáng chú ý, các ảnh không ghi nhận được hoạt động của các loài động vật ăn thịt lớn và động vật ăn cỏ như: hổ, báo gấm, sói lửa và sao la - một trong số ít loài thú lớn được phát hiện trong 50 năm qua. Bẫy ảnh chỉ ghi nhận được quần thể voi châu Á tại 2 khu vực dự án và loài thú móng guốc lớn như bò tót tại 1 khu vực dự án. Trong đó, phần lớn những loài được ghi nhận là những loài có khả năng chống chọi tốt nhất với áp lực săn bắt như các loài khỉ, chồn bạc má và lợn rừng.
Mặc dù kết quả khảo sát cho thấy động vật hoang dã đã suy giảm nghiêm trọng ở tất cả 21 khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, nhưng mức độ phong phú loài và số lượng loài đặc hữu tương đối cao. Cụ thể, 9 loài đặc hữu và 21 loài đặc hữu của dãy Trường Sơn có nguy cơ bị đe dọa cao được ghi nhận. Các loài quý hiếm như mang lớn và gấu chó cũng được phát hiện, góp phần cung cấp một vài ghi nhận về các loài này ở Việt Nam trong 20 năm qua.
Đợt điều tra thứ hai của dự án đang được tiến hành tại 21 khu rừng đặc dụng và rừng phòng hộ và sẽ được so sánh với kết quả ban đầu khi dự án kết thúc vào năm 2025. Kết quả khảo sát này sẽ cho phép dự án đánh giá xu hướng đa dạng sinh học ở 21 khu vực trong thời gian thực hiện dự án.
Ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp cho biết, mong muốn kết quả điều tra đa dạng sinh học bằng bẫy ảnh của dự án phát huy hiệu quả hơn nữa, góp phần thiết lập một hệ thống hướng dẫn bằng văn bản cho phép cơ quan quản lý nhà nước đưa ra những kiến nghị chính sách phù hợp nhằm bảo vệ động vật hoang dã, bảo tồn đa dạng sinh học.
“Mặc dù có nhiều loài bị mất đi, nhưng có những dấu hiệu tích cực cho thấy việc đầu tư nhằm giảm thiểu mối đe dọa đa dạng sinh học ở một số khu vực dự án đang giúp ổn định hoặc thậm chí tăng quần thể của một số loài. Điều này cho thấy sự cần thiết việc duy trì đầu tư đúng đắn và kịp thời vào công tác bảo tồn đa dạng sinh học, triển khai hoạt động của đội tuần tra tháo gỡ bẫy dựa vào cộng đồng cùng với nỗ lực tái hoang dã Việt Nam”, ông Bảo chia sẻ.
Ông Nick Cox, Giám đốc Hợp phần Bảo tồn Đa dạng Sinh học do WWF thực hiện với tài trợ từ USAID, nhấn mạnh: “Lần đầu tiên chúng tôi có trong tay dữ liệu để xác nhận quần thể động vật hoang dã của Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Đồng thời, kết quả điều tra cũng cho thấy những tín hiệu tích cực nhờ có sự đầu tư đúng đắn từ phía Chính phủ Việt Nam chung tay cùng các tổ chức trong nước và quốc tế. Bây giờ là thời điểm vàng để bắt đầu một chương trình nhân nuôi bảo tồn quốc gia nhằm tái hoang dã các khu bảo tồn, đồng thời duy trì và tăng cường các nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt là giảm nạn bẫy bắt động vật”.