Tính đến năm 2020, ngành nông nghiệp là lĩnh vực phát thải cao thứ hai, chiếm khoảng 19% tổng lượng phát thải quốc gia. Trong đó, lúa gạo là loại cây trồng quan trọng, cung cấp an ninh lương thực, được canh tác trên 54% diện tích đất nông nghiệp của cả nước. Tuy nhiên, đây cũng là ngành hàng chiếm 48% lượng phát thải khí nhà kính và hơn 75% lượng khí thải mê-tan của ngành nông nghiệp.
Mới đây nhất, một báo cáo về “Hướng tới chuyển đổi nông nghiệp xanh ở Việt Nam: Chuyển sang mô hình lúa gạo carbon thấp” được Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam công bố. Trong đó, báo cáo chỉ ra 5 nguyên nhân chính làm tăng phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa gạo. Bắt nguồn từ việc thâm canh nông nghiệp không bền vững và chặt phá rừng. Kế đến là tỷ lệ bón phân cao. Mức độ sử dụng nước tưới tiêu cũng quá cao. Hơn nữa, nông dân quản lý không đúng cách tàn dư lúa như rơm rạ và trấu. Cuối cùng là sử dụng năng lượng kém hiệu quả trong nông nghiệp.
Từ đó, các chuyên gia đã chỉ ra đến sự cần thiết phải chuyển đổi sang nền nông nghiệp carbon thấp. Đồng thời, báo cáo cũng đưa ra các khuyến nghị cho việc nghiên cứu chuyển đổi nông nghiệp xanh ở Việt Nam thông qua hướng tới sản xuất lúa gạo carbon thấp và truyền tải thông điệp hướng tới sản xuất lúa gạo “xanh”.
Vừa qua, trong khuôn khổ dự án Chuyển đổi Nông nghiệp Bền vững ở Việt Nam (VnSAT) do Ngân hàng Thế giới tài trợ, hơn 184.000 ha diện tích canh tác lúa ở ĐBSCL đã thí điểm thành công mô hình canh tác bền vững, giảm phát thải. Bài học từ dự án VnSAT cho thấy, việc áp dụng kỹ thuật 1 phải 5 giảm (1P5G) trong canh tác lúa có thể giảm phát thải khí nhà kính ở mức khoảng 8 tấn CO2e/ha/năm.
Bên cạnh đó, các thí điểm tại đồng ruộng vùng ĐBSCL cho thấy việc sử dụng công nghệ IoT – Cảm biến nước đã giúp nông dân tối ưu lượng nước, giảm tới 42% so với phương pháp ngập ruộng lúa thủ công. Đặc biệt hệ thống thủy lợi thông minh này có thể giảm lượng phát thải khí nhà kính lên đến 60 – 70% so với hệ thống tưới thủ công, tương đương từ 4 – 6 tấn CO2e/ha/vụ.
Dựa trên những ước tính thận trọng, việc cải thiện quản lý nước và tối ưu hóa việc sử dụng nguyên liệu đầu vào như giống, phân bón và thuốc trừ sâu có thể giúp bà con nông dân duy trì hoặc gia tăng sản lượng từ 5 – 10%. Đồng thời, giảm chi phí đầu vào từ 20 – 30%. Quan trọng hơn, những kỹ thuật cải tiến này sẽ giúp cắt giảm phát thải khí nhà kính tới 30%. Từ những tính toán đó, Ngân hàng Thế giới cho rằng đã đến lúc nền nông nghiệp nước ta cần thiết phải chuyển đổi sang nền nông nghiệp carbon thấp.
Ông Benoît Bosquet, Giám Đốc Khu vực về Phát triển Bền vững của Ngân hàng Thế giới, khu vực Châu Á Thái Bình Dương nhận định, Việt Nam đã có quyết định đúng đắn khi chuyển đổi sang mô hình sản xuất bền vững, thực hiện cam kết giảm phát thải, từ đó mở ra những cơ hội mới về tài trợ vốn hay được gọi là tài chính carbon.
Còn theo đánh giá của bà Dina Umali-Deininger, Giám đốc thực hành phụ trách về nông nghiệp và thực phẩm của Ngân hàng Thế giới, hiện nay các quốc gia trên thế giới như Châu Âu, Trung Quốc, Philippines, đều nhận ra những thách thức của biến đổi khí hậu và ngày càng chú trọng các chính sách hỗ trợ cho nông dân chuyển đổi sang các mô hình thực hành nông nghiệp tốt. Điển hình tại Đức có 84% các nhà bán lẻ tăng trưởng doanh thu từ những mặt hàng đáp ứng các tiêu chí bền vững về môi trường. Sản xuất lúa gạo carbon thấp không chỉ giúp Việt Nam thực hiện cam kết của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị COP26 mà còn mở ra cơ hội giúp sản phẩm nông sản của Việt Nam đáp ứng xu hướng tiêu dùng xanh của thế giới.
Con đường hướng tới sản xuất lúa gạo carbon thấp được các chuyên gia từ Ngân hàng Thế giới chỉ ra, là áp dụng kỹ thuật sản xuất tưới ướt khô xen kẽ, kỹ thuật 1P5G, nâng cao hiệu quả các hoạt động sau thu hoạch để giảm thất thoát và lãng phí lương thực. Theo phân tích do Viện nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI) thực hiện, nếu thực hiện đồng loạt các kỹ thuật tưới khô ướt luân phiên và áp dụng tối ưu kỹ thuật 1P5G trên 1,9 triệu ha lúa, có thể giúp ngành lúa gạo vùng ĐBSCL giảm phát thải khí nhà kính tiềm năng là 10,97 triệu tấn CO2e mỗi năm vào năm 2030. Ngoài ra, việc tái sử dụng 70% lượng rơm rạ cho các hình thức khác với lượng phát thải khí nhà kính thấp hơn khoảng 50% so với việc đốt rơm rạ.
Để đạt mục tiêu này, quan trọng là tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới, khuyến nông, hiểu biết về tài chính và sự kết nối vùng nông thôn. Tăng cường hệ thống khuyến nông, an toàn thực phẩm và hệ thống truy xuất nguồn gốc. Bên cạnh đó, giám sát tác động môi trường, phát thải khí nhà kính. Tận dụng công nghệ và nền tảng kỹ thuật số. Cuối cùng là tăng cường vai trò của HTX, hiệp hội để đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô và liên kết thị trường.
Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan phân tích: Thời gian trước bà con nông dân trồng lúa cố gắng nâng cao thu nhập bằng việc tăng sản lượng, nhưng khi đẩy sản lượng lên sẽ tạo ra nhiều hệ lụy. Những chi phí hữu hình, vật tư đầu vào đang ngày càng tăng, nông dân hiện chỉ tiếp cận đầu ra mà chưa quan tâm đến đầu vào. Bên cạnh đó còn tồn tại những chi phí vô hình như: suy thoái nguồn dinh dưỡng đất, môi trường, sức khỏe của người tiêu dùng và nông dân.
Tiêu dùng xanh hiện nay là một xu thế, sản phẩm ngoài việc cung cấp dinh dưỡng còn phải chứng minh phát triển bền vững, đảm bảo môi trường. Vì thế, Bộ trưởng cho rằng, bà con nông dân và ngành nông nghiệp các địa phương phải thay đổi cách tiếp cận hướng tới nền nông nghiệp xanh, sản xuất gạo giảm phát thải khí nhà kính.