| Hotline: 0983.970.780

Hình tượng ngựa trong chùa cổ ở Bắc Bộ

Thứ Năm 16/01/2014 , 10:29 (GMT+7)

Quan sát hệ thống kiến trúc cổ ở Bắc Bộ, rất dễ dàng tìm thấy hình ảnh về ngựa khắc trên vách, bức cốn, cửa võng… của chùa chiền.

Người xưa đã huyền thoại ngựa trở thành loài vật linh thiêng, hoá thân vào đời sống văn hoá tâm linh với đa dạng hình tượng nghệ thuật sinh động. Quan sát hệ thống kiến trúc cổ ở Bắc Bộ, rất dễ dàng tìm thấy hình ảnh về ngựa khắc trên vách, bức cốn, cửa võng… của chùa chiền.

Có lẽ hình tượng ngựa xuất hiện sớm nhất của mỹ thuật Việt Nam là ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), vào khoảng giữa thế kỷ XI, dưới hình thức chạm tròn nguyên khối đá với đôi ngựa nằm ngang cùng với voi, sư tử, trâu và tê giác. Cả 10 con thú đá dàn hàng chầu trước tòa trước chính điện này cùng có niên đại tạo tác vào năm 1057. Trong đó, hai con ngựa đá béo tốt, hình khối căng tròn biểu hiện sự no đủ, sung túc.

Ở ngôi cổ tự này, ngựa còn thấy xuất hiện trên đài sen, hàm nghĩa nó được Phật giác ngộ rồi tự nguyện chở kinh đi khắp nơi để giáo hoá chúng sinh. Trong số hàng trăm hiện vật được khai quật ở chùa Phật Tích năm 2008, các nhà khảo cổ phát hiện nhiều tượng thiên thần Kinnari với những kích cỡ khác nhau. Kinnari là hình tượng phổ biến trong Phật giáo ở Ấn Độ, được mô tả là vị thần nhạc công nửa người nửa ngựa.

Am Ngọa Vân trên núi Yên Tử (Quảng Ninh) là nơi được Phật Hoàng Trần Nhân Tông cho dựng vào năm 1307 làm nơi tu hành và giảng pháp, ngày nay tuy đã bị phá hủy, nhưng các dấu vết nền móng còn lại và ba bệ hoa sen, một tượng voi và một tượng ngựa bằng đá. Trong các ngôi chùa cổ, hiện diện rất phổ biến những đôi ngựa bạch - ngựa hồng tạo tác bằng gỗ để biểu hiện cho quan hệ âm - dương.

Tại tòa Tam bảo chùa Thầy (Hà Nội), tượng ngựa đỏ bày ở gian phải tòa Thượng điện và tượng ngựa trắng bày ở một gian nhỏ tại Tiền Đường có cửa trang trí con tiện để đứng ngoài vẫn thấy bên trong.


Ngựa gỗ ở chùa Thầy (ngựa đỏ)

Hai tượng ngựa được tạo tác với hình dáng và kích thước khá giống nhau: cao 2,1 m; dài 1,47 m; ngực rộng 0,94 m; đều có niên đại thế kỷ XIX. Ngựa được tạc trong tư thế hai chân trước đứng thẳng, hai chân sau hơi nhún, thân hình cao thon, tai hướng về phía trước, mặt dẹt, mắt hình ô trám, lưng thắng yên và có vải phủ kín lưng trên có thêu hoa, lá, rồng…, cổ đeo một vòng chuông.

Xung quanh đầu và miệng là các tua, gù màu vàng buông dài xuống ngực. Toàn bộ ngựa được đặt trên xe bốn bánh có thể di chuyển được.

Trong nghệ thuật Phật giáo có loại hình tượng Mã đầu Quán Âm, được nhắc tới trong sách "Quán Thế Âm" và "Lục Quán Âm", với phong cách đặc trưng là có 3 đầu hai tay, hoặc ba mặt tám tay. Trên đỉnh của ba mặt đều mang hình đầu ngựa, hóa thân này là của Đức Quán Âm bởi tâm đại bi, không đi vào Niết bàn mà cư ngụ trong các cảnh giới vô minh để cứu độ những ác thú.


Tượng Mã đầu Quán Âm ở chùa Hương Trai (Hoài Đức - Hà Nội)

Mặc dù Mã đầu Quán Âm rất phổ biến trong chùa ở Trung Quốc, thế nhưng ở Bắc Bộ nước ta đều chưa tìm thấy pho tượng nào giống với những mô tả như những cuốn sách trên.

Tuy vậy, có loại tượng Quán Thế Âm đứng cạnh ngựa cũng được các nhà nghiên cứu xếp vào nhóm tượng Mã đầu Quán Âm. Ở Bắc Bộ đã thống kê được 7 pho tượng như vậy, cùng niên đại thế kỷ XIX, được làm từ hai chất liệu gỗ và đất với chiều cao trung bình 90-110 cm, ngang vai 27-30 cm.

Các tác phẩm này đều tạc người phụ nữ ngồi trên giả sơn, gương mặt trái xoan tươi tắn, mắt phượng mày ngài, hai tai to với dái tai chảy tràn đầy vẻ phúc hậu. Đầu tượng đội mũ làm theo kiểu thu dần về phía trên, vành mũ sát chân tóc chạm nổi hình hoa cúc (chùa Đông Khê, chùa Hương Trai, chùa Cát Quế); hay tạo hình cánh sen (chùa Địch Vỹ); hoặc để trơn (chùa Phương Bản, chùa Hạ Hiệp).


Tượng ngựa ở chùa Cát Quế (Hoài Đức - Hà Nội)

Áo tượng kiểu chui đầu, phần trên ôm sát thân, phần dưới hơi thụng và xòe ra, rủ nếp mềm mại chảy tràn xuống chân, thắt lưng buộc nút con do tạo hình hoa trước bụng. Riêng tượng chùa Hương Trai được trang trí cầu kỳ thành những băng hoa văn ở phần ngực và các dải áo phủ bên ngoài tương tự như áo của các vũ nữ thiên thần.

Ngựa được tạo hình khá thật ở sát một bên sườn của tượng (bên phải hoặc bên trái) nhưng chủ yếu chỉ nhìn rõ nửa đầu và hai chân trước, nửa thân sau bị thân người che khuất. Tượng ngựa có 2 màu chủ đạo là trắng hoặc nâu sẫm. Một tay của tượng đặt trên đầu ngựa hay lưng ngựa, tay kia đặt trên gối hoặc giơ lên trước ngực trong các thế ấn khác nhau.

Nghệ thuật điêu khắc luôn chiếm địa vị quan trọng trong xã hội Việt Nam, đặc biệt trang trí trên vách, những bức cốn, cửa võng nơi chùa chiền. Với kỹ thuật chạm nổi, đục thủng, chạm lộng, bong kênh bằng những đường nét chạm khắc tỉ mỉ, sắc gọn, diễn tả các đề tài thiên nhiên, thể hiện những ước vọng thanh bình, dung dị của cuộc sống của con người.

Trong đó, hình ảnh ngựa xuất hiện khá dày đặc, diễn tả nhiều tư thế khác nhau: đang phi nước đại hay đang bay trong làn mây xanh; đang rong ruổi trên chặng đường dài cùng những ông quan đội mũ cánh chuồn; hình ảnh người cưỡi ngựa phía sau có người hầu; hình ngựa lồng, ngựa nô dỡ, gặm cỏ, uống nước... Ngựa tạo hình dân gian ở chùa chiền lắm kiểu cách, phổ biến nhất là những mô típ "bát mã quần phi”, “long mã”, “vân mã” (ngựa bay trên mây), “mã hầu” (khỉ ngồi trên ngựa).


Long Mã

Đặc sắc như hình ảnh ngựa đá nhau được chạm trổ trên hương án chùa Bút Tháp (Bắc Ninh) vào thế kỷ XVII, khỉ cưỡi ngựa trên vách chùa Tây Mỗ (Hà Nội) thuộc thế kỷ XIX, những chú ngựa vượt qua hoa lá chạm đá trên văn bia tại chùa Linh Quang (Hải Phòng)...

Thậm chí, ngựa còn xuất hiện cả trên từng viên gạch, viên ngói lợp mái chùa. Khi khảo cổ nền móng chùa Lạng ở tỉnh Hưng Yên, các nhà khoa học đã tìm thấy rất nhiều viên gạch có khắc hình ngựa bay được SX từ thời Lê - Mạc.

Từ thời nhà Mạc trở đi, con ngựa đã vượt qua ý nghĩa tầm thường để thành Long Mã: đầu rồng, thân ngựa, vẩy cá chép, chân hươu, đuôi bò.

Ở chùa Thầy (Hà Nội), hình ảnh long mã được chạm trên cửa võng điện Phật, trên câu đối, trên áo tượng Khuyến Thiện, trên nhang án điện Thánh. Độc đáo nhất là cửa võng Điện Phật có niên đại thế kỷ 19, với long mã cõng hà đồ, nét khác biệt ở đây là linh vật này không chỉ mang thân hình của ngựa, mà chân cũng đúng móng guốc của loài ngựa.

Vừa là hoành phi, vừa là cửa võng nơi thể hiện kết hợp khéo léo giữa nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật, gợi nên ý nghĩa lớn lao về quan niệm triết học đề cao vai trò của sự hài hòa âm dương trong cuộc sống, bởi đó là cội nguồn để tạo nên tất cả vạn vật - đó cũng là một triết lý sâu sắc mà Phật giáo muốn gửi đến chúng sinh thông qua nghệ thuật tạo hình.

Những hình ảnh long mã đẹp còn phải kể đến như trên bức cốn ở chùa Ngọc Lộ (Hải Dương), bức cốn ở chùa Chi Đông (Hà Nội), ở chùa Trà Phương (Hải Phòng)… đều là các tác phẩm nghệ thuật điêu luyện, hết sức tinh xảo đạt trình độ thẩm mỹ cao của nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian.

Xem thêm
Thái Nguyên thông qua nghị quyết sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã 2023-2025

Đây là 1 trong 10 nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội được thông qua tại Kỳ họp thứ 18 của HĐND tỉnh Thái Nguyên khóa XIV, nhiệm kỳ 2021-2026.

4,2 triệu Euro hỗ trợ nông dân ĐBSCL làm nông nghiệp sinh thái, thông minh

Trà Vinh Dự án được tài trợ bởi Liên minh Châu Âu và triển khai tại các tỉnh Đồng Tháp, Kiên Giang và Trà Vinh, với tổng vốn đầu tư 4,2 triệu Euro.

Du khách ở TP.HCM sắp được trải nghiệm xe điện

TP.HCM Sẽ có 70 xe điện được đưa vào phục vụ khách. Thời gian hoạt động từ 6-24 giờ hằng ngày, thí điểm trong 2 năm (từ quý II/2024 đến hết năm 2025).

42 mẫu cà phê vào chung kết cuộc thi Cà phê đặc sản Việt Nam

42 mẫu cà phê, gồm 24 mẫu cà phê robusta và 18 mẫu arabica lọt vào vòng chung kết cuộc thi cà phê đặc sản Việt Nam 2024.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm