| Hotline: 0983.970.780

Làm nông nghiệp sáng tạo thích ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL

Thứ Sáu 09/12/2022 , 16:15 (GMT+7)

ĐBSCL ĐBSCL đang tích cực ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp để thích ứng biến đổi khí hậu đồng thời cải thiện năng suất và thu nhập cho nông dân.

Theo dự báo của Liên Hiệp quốc đến năm 2050, dân số thế giới có thể đạt 9.2 tỷ dân. Dân số tăng, kéo theo áp lực về lương thực tăng lên nhiều lần so với năm 2022. Trong khi, chúng ta đang đối mặt một số thách thức trong bối cảnh hiện nay có tác động đến hoạt động nông nghiệp và an ninh lương thực như biến đổi khí hậu, đất đai bị thu hẹp và thoái hóa, thiếu nước ngọt, diễn biến bất thường của thời tiết, ô nhiễm môi trường…

Những vấn đề trên đặt ra yêu cầu, chúng ta phải tìm ra những giải pháp phù hợp để thích ứng, chuyển đổi trong các hoạt động nông nghiệp thiết yếu và trở thành mắt xích của một hệ sinh thái mới về công nghệ số và chuyển đổi. Nông dân ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp đang là xu hướng chủ đạo, là chìa khóa thành công của các nước có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới hiện nay.

Ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại là chìa khóa thành công của nền nông nghiệp các nước. Ảnh: Hồ Thảo.

Ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại là chìa khóa thành công của nền nông nghiệp các nước. Ảnh: Hồ Thảo.

Theo PGS.TS Lê Văn Vàng, Hiệu trưởng Trường Đại học Nông nghiệp Cần Thơ, nông nghiệp là lĩnh vực thiết yếu tạo ra lương thực, thực phẩm. Ở Việt Nam, kinh tế nông nghiệp đã có sự phát triển tích cực kể từ sau đổi mới năm 1986, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người nông dân, ổn định kinh tế - xã hội và tạo nền tảng vững chắc để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế nông nghiệp nước ta còn rất thấp, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, năng suất, chất lượng chưa cao, giá trị gia tăng thấp. Cùng với đó, sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa vào các ưu thế về tự nhiên, thâm dụng đất đai và sức lao động nên dễ bị tổn thương trước thiên tai, dịch bệnh và để lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Chìa khóa để giải quyết những tồn tại, hạn chế này là đẩy nhanh ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.

Cũng theo PGS.TS Lê Văn Vàng, một số ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp phổ biến hiện nay là sử các loại phân bón hữu cơ, phân vi sinh đã góp phần cải thiện đáng kể chất lượng đất trồng. Hay việc áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp đã giúp cho nông dân giảm chi phí đầu vào, tăng chất lượng sản phẩm, góp phần tăng lợi nhuận khoảng 20 – 30%. Đồng thời, áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ đã chọn tạo được nhiều cây, con giống mới có chất lượng cao, khả năng phòng trừ dịch bệnh, thích ứng tốt với các điều kiện tự nhiên khắc nghiệt…

Cùng quan điểm, PGS.TS. Nguyễn Văn Đức, đại diện Hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam cho rằng, nông dân Việt Nam đang lúng túng và còn bảo thủ trong việc tiếp cận công nghệ cao, điều kiện tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật còn hạn chế, dẫn đến sự am hiểu và áp dụng công nghệ cao vào sản xuất là tương đối thấp. 

“Thu nhập của nông dân trồng lúa tại ĐBSCL đang nghèo nhất vùng, thể hiện qua phần trăm GDP đầu người còn thấp, nhưng lực lượng lao động trong nhóm này chiếm 50% lực lao động toàn vùng. Do canh tác lạc hậu, dẫn đến năng suất người nông chưa cao, vì vậy chúng tôi mong muốn nông dân thay đổi tư duy tiếp cận những tiến bộ khoa học, kỹ thuật để ứng dụng vào nông nghiệp. Nhằm tạo ra năng suất, cũng như cải thiện thu nhập cho người nông dân ĐBSCL nói riêng, cả nước nói chung”, PGS.TS Lê Văn Vàng cho biết.

Đại diện Hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam chia sẻ, công nghệ cao là tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng, có tính năng vượt trội, trị giá tăng cao. Đồng thời, sản phẩm tạo ra thân thiện với môi trường, đóng vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất mới hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.

Nói về ứng dụng công nghệ cao vào chăn nuôi ông Đức cho biết, chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao là áp dụng đồng bộ tất cả các công nghệ: thông tin, sinh học, vật liệu mới và tự động hóa... Góp phần giúp nông dân tham gia chuỗi giá trị gia tăng, thương mại toàn cầu, đem lại tăng trưởng kinh tế cao cho địa phương, quốc gia. Đại diện Hội chăn nuôi Việt Nam cũng thông tin, ngành chăn nuôi Việt Nam đang phát triển với tốc độ 4-6%, và giá trị sản xuất chăn nuôi tăng 5,5% so với 2021.

Nông dân ĐBSCL đang tích cực đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu. Ảnh: Hồ Thảo.

Nông dân ĐBSCL đang tích cực đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu. Ảnh: Hồ Thảo.

“Để sớm hiện thực hóa mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, có năng suất, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh, đem lại giá trị gia tăng cao và phát triển bền vững thì tất yếu phải đẩy nhanh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất”, PGS.TS Nguyễn Văn Đức khẳng định.

Xem thêm
Chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt cho hộ nghèo ở Thanh Hóa

Tập đoàn Mavin và Tổ chức Tầm nhìn Thế giới Việt Nam (World Vision) vừa tổ chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi vịt tại huyện Thường Xuân, Thanh Hóa.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm