Chống lụt, chống hạn là kế sách an dân
Việt Nam là đất nước thuần nông, thế nên vấn đề xây dựng hệ thống thủy lợi là mối bận tâm lớn xuyên suốt lịch sử từ xưa đến nay. Từ rất sớm, các triều vua thời phong kiến đã đầu tư xây dựng hệ thống đê điều để chống lụt và xử lý hạn hán, trị thủy, thủy chế, điều hòa nước các con sông lớn để phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Đến thời nhà Nguyễn, vấn đề đắp đê, trị thuỷ ở vùng châu thổ Bắc Hà được đặc biệt quan tâm, nhằm tạo điều kiện cho người dân an cư lạc nghiệp. Năm Quý Hợi (1803), khi vừa mới lên ngôi, vua Gia Long đã bắt tay ngay vào việc ổn định kinh tế đất nước, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc đê điều trị thủy ở Bắc Thành.
Theo sách Đại Nam thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn, các quan trấn thủ Bắc Thành lúc bấy giờ đã có sớ tâu lên vua Gia Long, rằng: “Thế nước sông Nhị Hà rất mạnh, đê bên tả, đê bên hữu ven sông thuộc Sơn Tây, Kinh Bắc, Sơn Nam thượng hạ nhiều chỗ bị vỡ, xin thuê dân đắp sửa để chống lụt mùa thu. Lại thủ đạo các trấn nhiều nơi ứ tắc, xin hạ lệnh cho trấn thần tùy thế khơi vét. Vua theo lời tâu, cho đắp 7 đoạn đê mới, lại đắp bồi một đoạn đê cũ hết 80.400 quan tiền…”.
Xác định thủy lợi là vấn đề cấp thiết, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, vua Gia Long xuống chiếu lệnh cho các quan Bắc Thành điều trần về việc tưới tiêu trong canh tác lúa để quy hoạch việc xây dựng hệ thống thủy lợi.
Suốt thời gian trị vì, vua Gia Long luôn chú trọng đến việc đắp đê Bắc Thành. Năm Giáp Tý (1804), nhà vua sai các vị quan trấn Bắc Thành huy động dân đi sửa, đắp đê. 2 năm sau, vào năm Bính Dần (1806), vua Gia Long đã chi 95.200 quan tiền để đắp 12 đoạn đê mới ở Bắc bộ. Tiếp tới, năm Mậu Thìn (1808), vua cho đắp thêm 10 đoạn đê mới tại các huyện Thanh Trì, Gia Lâm, Văn Giang với tổng chiều dài 1.500 trượng (1 trượng bằng 0,4m dài). Năm 1809, theo lời tấu của Đô chính Bắc Thành, nhà vua lại cho đắp thêm 2 đoạn đê mới và tôn cao 2 đoạn đê cũ, chi phí hết 87.000 quan tiền.
Cũng năm 1809, vua Gia Long đã cho đặt chức quan Đê chính Bắc Thành chuyên coi về đê điều phía Bắc, cử Binh bộ Thượng thư Đặng Trần Thường làm tổng lý và quan Tham chính Bộ công Nguyễn Khắc Thiệu làm tham lý. Từ đó, vua Gia Long quy định: Cứ tháng 10 âm lịch hằng năm, các quan phủ, huyện, trấn thuộc Bắc Thành phải tổ chức kiểm tra hệ thống đê điều.
Đê nào cần sửa nên sửa, đê nào cần đắp mới thì xác định công trình lớn hay nhỏ; nếu là công trình lớn thì thuê dân làm. Việc sửa chữa đê điều khởi công vào tháng Giêng hoặc tháng Hai hằng năm, đến tháng Tư âm lịch phải thực hiện hoàn tất. Tháng 9 âm lịch năm 1809, vua Gia Long ban hành điều lệ về đê điều ở Bắc bộ; trong đó, quy định chi tiết về quy mô, nguồn nhân lực từng loại đê và chi tiết đến cả giá thành từng trượng, thước đất đắp đê…
Thủy lợi được các vương triều nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm
Vào thời vua Minh Mạng, vấn đề đê điều, trị thủy được nâng lên thành nhiệm vụ chính trị, là nhiệm vụ hàng đầu, hầu như năm nào cũng thực hiện việc trị thủy quy mô lớn ở Bắc Thành. Có những công trình trị thủy quy mô lớn đến mức triều đình phải huy động hàng vạn người dân tham gia.
Đến lúc này, vua Minh Mạng không chỉ tiếp tục duy trì các khung thưởng, phạt về đê điều được ban hành từ các triều vua tiên đế, vua Minh Mạng còn bổ sung nhiều điều luật chặt chẽ, nghiêm khắc hơn.
Ví như vào năm 1827, từ vụ quan lại Bắc Thành thuê dân làm đê không đúng cách thức, vua Minh Mạng đã nghiêm khắc phê phán: “Việc đê quan hệ tới việc làm ruộng không nhỏ. Công việc sửa, đắp đê triều đình vốn không tiếc phí, làm không đúng cách thức là lỗi Hữu Ty”. Đồng thời, nhà vua còn dụ rằng: “Đắp đê là chống nước lụt cho dân yên ở, quan hệ lợi hại không nhỏ”.
Vì thế, những người phạm lỗi là Hiệp trấn Sơn Nam Ngô Huy Viện đã bị cách chức, còn Tham hiệp trấn Vũ Tiến Huân thì bị phạt đánh 100 trượng và phát đi làm lính cơ. Riêng Trấn thủ Lê Công Lý dù đã chết vẫn bị triều đình thu lại bằng sắc…
Việc thưởng phạt trong công tác trị thủy của vua Minh Mạng cho thấy từ xa xưa, tiền nhân đã xem việc làm thủy lợi quan trọng đến nhường nào!
Xuyên suốt các triều vua nhà Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức… đều xem việc đê điều, trị thủy ở Bắc Thành là vấn đề “nóng” được đặc biệt quan tâm. Theo đó, vào năm 1828, theo đề nghị của các quan, vua Minh Mạng đã quyết định tăng cường thêm nhân sự cho Nha môn Đê chánh. Đến thời Tự Đức, việc đắp đê, sửa chữa, kiểm tra, kiểm soát đê được quy định rất cụ thể, chi tiết.
Vua Tự Đức đề ra khung thưởng phạt về sự phòng hộ đê, phân định trách nhiệm của các phủ, huyện, tổng, lý sở tại những nơi để đê vỡ, ảnh hưởng đến sản xuất của nông dân… Nhờ vấn đề xây dựng hệ thống thủy lợi được quan tâm, nên vào năm 1809 hệ thống đê điều ở Bắc Thành chỉ mới xây dựng được 239.933 trượng, tương đương 960km thì đến cuối thế kỷ 19, hệ thống đê này đã được xây dựng dài đến 2.400km.
Theo sách Đại Nam thực lục, tháng 9/1828, ông Lê Đại Cương (tức Lê Đại Cang) nhân vật lịch sử (1771-1847) được sinh ra tại thôn Luật Chánh, xã Phước Hiệp (huyện Tuy Phước, Bình Định) được vua Minh Mạng cử giữ chức quan quản lý Đê chính Bắc Thành để tăng cường nhân sự cho Nha môn Đê chánh. Trên cương vị này, ông Lê Đại Cang từng bước chứng tỏ mình là một “kiến trúc sư” và là “chuyên gia trị thủy” xuất chúng.