| Hotline: 0983.970.780

Nỗi nhớ xa xăm, tùy bút nhà văn Trần Huy Quang: [Kỳ 1] Thiên thần áo rách

Thứ Hai 25/07/2022 , 07:42 (GMT+7)

Chúng tôi là hiện thân của Thiên Thần, lớn lên trong lời ru chưa bị ô nhiễm bởi những tuyên truyền hận thù độc hại, chơi với cỏ cây, ruộng đồng, sông núi nguyên sơ.

Nhà văn Trần Huy Quang.

Nhà văn Trần Huy Quang.

Làng tôi vốn vậy như từ thời xa xưa, mọi thứ tính theo âm lịch. Phiên chợ, giao dịch, mua bán, sinh đẻ, tang gia, nông vụ, con nước lớn hay ròng, cưới xin, động thổ làm nhà, nhất nhất đều theo âm lịch. Mặt trời thì xa, bao la vô tận, vô cùng, mặt trăng thì gần, dịu dàng như bạn, nhất là những đêm trăng sáng vằng vặc. Đêm xem trăng sao biết mưa nắng, nhìn ráng chiều, màu mây hoàng hôn, mỡ gà thì gió, mỡ chó thì mưa, chuồn chuồn bay cao nắng, bay vừa thì nhâm, kiến, cây cỏ, mèo chó, chớp nháy ở hòn Mê hay hòn Câu, vân vân, để đoán định mưa nắng gió bão mà giong buồm ra biển hay gieo hạt.

Bài liên quan

Với mệ tôi, thời gian đo đếm như trong mộng, trong mơ, khoảng khoảng, hoặc đêm dài năm canh, dù trống canh chẳng còn. Canh hai đi nằm canh tư đã dậy, nghe nhiều tôi đoán là thức khuya dậy sớm. Chê ai thì mệ tôi bảo ngủ ườn xác ra, mặt trời lên một con sào mới bỏ chân xuống giường. Ai đưa con sào đến được chân trời mà đo là một hay hai? Khen ai thì bảo đứng bóng còn chổng mông ngoài đồng. Giữ khách lại chơi thì trách, ngồi chưa dập miếng trầu đã đòi về? Ngồi chơi chưa dập miếng trầu là bao lâu, chịu.

Mệ tôi là người đàn bà rất âm lịch, khi tôi lớn lên bà còn mặc váy sồi nhuộm đen, áo cánh nâu hoặc lụa màu mỡ gà, chít khăn nhung hoặc nhiễu. Bà luôn ăn trầu, mùa cau thì ăn cau tươi, hết mùa thì ăn cau khô, thêm mảnh vỏ chay, môi đỏ sẫm hai hàm răng đen nhưng nhức.

Đến khoảng những năm chiến tranh chống Mỹ, các bà quê tôi mới bỏ váy nhuộm bùn mặc quần đen, nhờ vào thời bao cấp nhà nước bán vải phíp các bà mặc quần thấy đẹp và gọn thế là cả làng thay đổi. Người chít khăn nhung cũng chỉ còn vài chục bà, khi họ về với tổ tiên thì hình ảnh người đàn bà áo cánh nâu, răng đen chít khăn mỏ quạ chỉ còn trong sách vở.

Mệ tôi có hôm đi chợ bán khoai khô, về cười nắc nẻ với mự Trường Cơu, bữa ni khoai bán được giá hơn hôm qua, một nồi đắt hơn một đồng. Một nồi là bao nhiêu cân, chắc một nồi vừa nấu ăn một bữa. Mười nồi thì tính một lường, nhiều hơn thì tính hai mươi lường, ba mươi lường, bốn mươi lường… Lường không biết là bao nhiêu, có giống đấu hay thưng của các vùng không? Thóc trong nhà tính bằng cót, "năm nay cả vụ mười gom góp chỉ được lưng cót thóc", cả làng không có ai có nổi hai cót thóc.

Người đi biển về nói với nhau, "tui thả lưới chỗ năm sải nước", tức là chỗ nước sâu năm sải tay. Dưới sải tay, đo gì ngắn hơn thì thước, một thước bằng hai gang. Dưới thước là tấc, một tấc lên trời, bọn con nít chịu, không biết một tấc là bao nhiêu.

Làng xóm thế mà vui ra phết, lại ấm áp, đo đếm tính toán với nhau lỏng lẻo, đại khái, lọt sàng xuống nia, chín bỏ làm mười, có khi mười một cũng bỏ thành chín. Ân nghĩa sao đong đo tính đếm chi li được? Đi ăn giỗ thì bao giờ cũng có phần mang về. Giỗ nhỏ không mời ai thì biếu đĩa xôi và miếng thịt luộc. Con nít được chia cục xôi chỉ bằng quả ổi đã sướng lắm, nhớ suốt đời. Nhà ai có việc hiếu hay hỉ đều coi như việc của cả xóm, không nề hà, không đợi gia chủ có lời, người cao tuổi thì sắp xếp, con nít thì thực hiện, ấm áp vui vẻ cả ngày. Con nít đi chơi, sẵn đâu ngủ đó như ngủ ở nhà, cửa giả ít khi phải đóng. Không nhà nào có cổng, cành tre rấp ngoài ngõ cũng không.

Minh họa: Ngô Xuân Khôi.

Minh họa: Ngô Xuân Khôi.

Hết việc đồng áng thì đan lưới, tay đan dẻo như múa. Ông già đan rổ, đan sàng, đan mẹt, đan rá, ngồi đan dưới ánh trăng, ánh sao mờ mờ mà vẫn đẹp. Tay đan miệng hát, ngâm Kiều, lẩy Kiều, không Kiều thì hát phường Vải, Đò Đưa cứ như thôn xóm đang trong ngày hội dù là hồi chiều có mấy bà chửi nhau vì mất gà.

Đèn thắp bằng dầu lạc, đĩa dầu trong cái quang sắt treo lên, ngọn bấc xốp ngấm dầu cháy leo lét, nhẹ như bấc là thứ bấc này, chỉ để cho người dệt vải và con nít học bài. Có lúc đĩa đèn cạn dầu ngọn bấc cháy cả vào trong lòng đĩa, mẹ tôi bảo tôi lấy sợi bấc khác thay. Tôi rút một sợi trăng trắng trong cái thúng của mẹ tôi, sợ không phải, đưa đến cho mẹ tôi, mẹ tôi bảo, đúng bấc rồi con, mọi sự cũng cần coi nhẹ như ngọn bấc đó con.

Đĩa dầu thứ hai chỉ dành cho mệ và ả Ngân tôi dệt, còn con nít hết đĩa dầu thứ nhất là đi ngủ. Tôi mơ những giấc mơ chạy theo những con diều giấy bay trên cánh đồng cây Da vừa gặt trong tiếng lách cách đều đều của những khung cửi dưới nhà như tiếng ru dìu dặt dẫn tôi đi từ giấc mơ này đến giấc mơ khác.

Suốt năm, suốt tháng, suốt mùa lam lũ không ngơi tay. Chỉ có học trò mới có ngày chủ nhật. Tôi không nhớ những ngày chủ nhật thời đó anh em tôi có phải đi gặt, đi cấy hay làm cỏ khoai cỏ lúa gì không, tôi hoàn toàn không nhớ, tôi chỉ nhớ ngày nghỉ học là ngày hội re chim, là giấc mơ của bao la trời đất, đánh khăng, đánh đáo, chơi ù, thả diều, re chim, săn cáo… hết trò này đến trò khác như vô tận.

Chúng tôi là hiện thân Thiên Thần Áo Rách nhưng vẫn là những Thiên Thần, được hít thở khí trời trong veo, lớn lên trong lời ru chưa bị ô nhiễm bởi những tuyên truyền hận thù độc hại, được chơi với cỏ cây, ruộng đồng, sông núi Tổ tiên nguyên sơ mơn mởn xanh với màu xanh tự nhiên của sự sống đất trời, chưa có mối nguy nào phải đề phòng hay bị cấm đoán.

Quả là đất của Ta, trời của Ta, cây xanh, nước ngọt, gió lành cho người cày cấy. Mọi sự bình an, hòa thuận, trong lành giữa người với người, làng này với làng kia, giữa con người với ruộng đồng từ thời xa xưa và mong mãi như thời xa xưa ấy.

Minh họa: Ngô Xuân Khôi.

Minh họa: Ngô Xuân Khôi.

Mầm ngô, mầm lạc, mầm đỗ vừa nhú lên khỏi mặt đất một chút trăng trắng rất non tơ là thứ mà lũ chim khát khao thèm muốn. Sáng ra trên bờ tre đã dày đặc từng đàn chim sáo sậu, chèo bẻo, chào mào… bay lên bay xuống. Bọn ác là, quạ đen cậy mình to con không thèm bay lên bay xuống, cả không sợ thằng bù nhìn rơm ngáo ộp to đùng đang khua khoắng loạn xạ. Chim chóc còn không sợ bù nhìn thì đừng nói gì đến ma quỉ. Ma quỉ thời nay còn kết dính với bù nhìn tạo ra nhiều phép lạ bí truyền. Từ ngàn xưa đã vậy, chưa nói đến kì loạn thế.

Lũ chim ri, chim sẻ ríu rít ầm ĩ trên mái ngói, không thích ra ruộng. Chim cắt và diều hâu dang cánh vòng vòng trên mây, tưởng cao siêu vô hại nhưng sơ ý tích tắc là xong mấy con gà con. Chỉ có bìm bịp và cuốc thinh thoảng thấy nhoáng một cánh chim nâu vù qua ruộng lúa rồi biến mất trong bụi đình đình hay bờ ruộng, đố ai biết nó ở đâu, vừa giống hiệp khách, vừa giống đạo chích.

Đôi khi nghe tiếng bìm bịp kêu thảng thốt ngoài bãi càng lúc nghe càng xa vắng. Tiếng cuốc chỉ nghe vào mùa hè, nghe thê lương nẫu ruột, suốt đêm khắc khoải ngoài bờ ruộng rất gần nhưng chẳng ai nhìn thấy nó. Người lớn bảo chim cuốc kêu thiết tha như tiếc nuối cho đến khi rỉ máu mà chết nhưng tôi chưa tìm được xác nó bao giờ. Chỉ thấy người nghe tiếng cuốc hao mòn khắc khoải thâu đêm mà rỉ máu với chim.

Đó là những con chim hiệp khách, thấp thoáng xa xôi gợi sự lãng du mây gió. À thêm một loài chim như vậy nữa, đó là chim giang giang. Khi mùa hè qua, bầu trời dịu lại, bàng bạc màu mây, thì đàn chim giang giang nối cánh nhau thành hình chữ V, mờ mờ bàng bạc lẫn với mây, bay qua sông Mơ về phía mặt trời lặn. Lúc lúc lại thấy một đàn bay qua sông, cứ theo hình chữ V thế, bay mải miết như mây bay. Không biết chúng bay về đâu, hay bay đến chỗ mặt trời lặn thật.

Còn những loài chim khác chỉ là loài chim phàm tục. Cú hễ mở miệng ra là bị xua đuổi, ban ngày ngủ gà ngủ gật trên cây chay, lặng lẽ, ẩn dật. Bọn ác là, quạ đen đánh nhau liên tục, chao chác ồn ào, rất lắm lời mà lời lẽ thô tục, đậu đầy cây gạo, làm tổ tít trên ngọn gạo, cao tít tắp, nhìn mà phát khiếp. Đỡ chán hơn là bọn chào mào, sáo sậu, chèo bẻo, bói cá, bách thanh, cũng có khi ồn ào, coi thường cả chú bù nhìn bặm trợn nhất thế gian nhưng cũng có khi chúng biết dịu dàng, con bè trầm líu lo chỉ nhường một con lĩnh xướng cao vút lanh lảnh.

Và bao giờ cái dàn đại hợp xướng kia cũng chỉ diễn ra buổi sáng khi ánh nắng mặt trời chiếu nhẹ qua rặng tre dày đổ bóng xuống nửa vườn ngô vừa lên được ba lá và gió thì như ngừng hẳn, thổi qua vùng khác. Buổi chiều thì chúng biến đi đâu sạch, không còn bóng chim tăm cá. Em gái tôi hay hát:

Chim ri mệt mỏi ở nhà

Sáo sậu trong tổ nhảy ra chia phần

Bìm bịp thì đánh trống quân

Chim chích mặc quần đánh mõ theo sau.

À, hay là thế nhỉ? Đâu phải vô tư líu lo ca hát suốt ngày được?

Bài viết cho chuyên mục xin được gửi về Báo Nông nghiệp Việt Nam, 14 Ngô Quyền, Hà Nội. Email: baonnvnts@gmail.com.

Hoặc liên hệ người phụ trách chuyên mục: Ông Tô Đức Huy, Trưởng ban Thư ký Tòa soạn; Điện thoại: 0913.378.918; Email: toduchuy75@gmail.com.

 

Trích trong “Nỗi nhớ xa xăm”, chưa xuất bản

Xem thêm
5 giải pháp cho vụ hè thu đặc biệt khó khăn ở Nghệ An

Vụ hè thu năm nay của Nghệ An đang đứng trước những khó khăn lớn do thời tiết gây ra, nhất là nắng nóng, hạn hán.

Syngenta Việt Nam ra mắt lúa lai 3 dòng thế hệ mới SYN8

Giống lúa lai 3 dòng thế hệ mới Syn8 được Syngenta đưa về Việt Nam từ năm 2020, qua nhiều cuộc khảo nghiệm, đánh giá đã thể hiện được các ưu thế vượt trội.

Cảm biến giúp nuôi trồng thủy sản thích ứng biến đổi khí hậu

Hệ thống cảm biến Internet of Things (IoT) mới, chi phí thấp có thể giúp ngành nuôi trồng thủy sản ở các nước đang phát triển chống lại tác động của biến đổi khí hậu.

DG SANTE nêu điều kiện để Việt Nam xuất khẩu phở bò sang EU

Những sản phẩm tổng hợp như phở bò chịu sự điều chỉnh của quy định mới (EC) 2022/2292, đòi hỏi công khai, minh bạch nhiều thông tin về xuất xứ, cơ sở chế biến.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm