| Hotline: 0983.970.780

Phát triển nuôi cá lồng bè trên sông ở đồng bằng Bắc bộ

Thứ Năm 02/12/2021 , 17:48 (GMT+7)

Nghề nuôi cá lồng bè nước ngọt được đánh giá là tiềm năng và phù hợp với các địa phương có hệ thống sông, hồ đa dạng tại khu vực đồng bằng Bắc bộ.

TTKNQG phối hợp Tổng cục Thủy sản, Sở NN-PTNT Hải Dương và nhiều tỉnh đồng bằng Bắc bộ thực hiện diễn đàn 'Phát triển nuôi cá lồng bè bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái'. Ảnh: Tùng Đinh.

TTKNQG phối hợp Tổng cục Thủy sản, Sở NN-PTNT Hải Dương và nhiều tỉnh đồng bằng Bắc bộ thực hiện diễn đàn “Phát triển nuôi cá lồng bè bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái”. Ảnh: Tùng Đinh.

Ngày 2/12, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (TTKNQG) phối hợp Tổng cục Thủy sản, Sở NN-PTNT Hải Dương và nhiều tỉnh đồng bằng Bắc bộ tổ chức diễn đàn “Phát triển nuôi cá lồng bè bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái” để đánh giá và nhân rộng mô hình hiệu quả này của Hải Dương.

Theo ông Đặng Xuân Trường, Trưởng phòng Khuyến ngư (TTKNQG), hiện nay mỗi năm có khoảng 4 - 5 dự án phát triển nuôi cá lồng bè nước ngọt trên sông và hồ chứa.

“Các đối tượng nuôi hiện nay tập trung vào thủy đặc sản và các loài bản địa có giá trị kinh tế cao, nâng thu nhập cho người nuôi như cá lăng, cá chiên, cá bỗng… và sắp tới có thể mở rộng thêm các loại cá phổ thông hơn như cá trắm đen, cá chép…”, ông Đặng Xuân Trường cho biết.

Theo đánh giá của TTKNQG, Hải Dương là địa phương có điều kiện thuận lợi về mặt nước do có sự kết nối của nhiều con sông ở đồng bằng Bắc bộ, thích hợp cho phát triển nghề nuôi cá lồng bè.

Qua diễn đàn, TTKNQG mong muốn tỉnh Hải Dương chia sẻ kinh nghiệm trong lĩnh vực này và cùng các đơn vị liên quan thảo luận, tìm ra phương án để phát triển bền vững, đảm bảo môi trường cũng như giảm giá thành, tăng hiệu quả kinh tế cho người nuôi.

“Hiện nay, vấn đề sử dụng mặt nước đang được người nông dân rất quan tâm và diễn đàn hôm nay cũng là cơ hội để các cơ quan quản lý thông tin được đến người dân, giúp họ yên tâm sản xuất, kinh doanh hướng tới các sản phẩm có truy xuất nguồn gốc, chứng nhận rõ ràng để nâng giá trị của sản phẩm”, ông Đặng Xuân Trường cho biết thêm.

Hiện nay, nuôi cá lồng bè vẫn còn dư địa rất lớn tại các hệ thống sông ở đồng bằng Bắc bộ. Ảnh: NNVN.

Hiện nay, nuôi cá lồng bè vẫn còn dư địa rất lớn tại các hệ thống sông ở đồng bằng Bắc bộ. Ảnh: NNVN.

Ngoài ra, diễn đàn cũng là dịp để nhìn nhận, đánh giá vai trò và đưa ra phương hướng phát triển hệ thống khuyến nông cơ sở ở các địa phương, phát huy được hết chuyên môn để hỗ trợ người dân phát triển sản xuất, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi cá lồng bè nước ngọt.

Ở góc độ địa phương, ông Vũ Việt Anh, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Hải Dương cho biết, năm 2021, mặc dù có nhiều khó khăn do dịch Covid-19 nhưng ngành nông nghiệp tỉnh vẫn có những phát triển đáng ghi nhận, trong đó có lĩnh vực nuôi cá lồng bè nước ngọt.

“Hiện nay, tỉnh có hơn 7.000 lồng cá trên sông, sản lượng gần 30.000 tấn/năm, chủ yếu là cá diêu hồng, rô phi đơn tính, cá nheo, cá trắm, cá chép, cá tầm… chất lượng đáp ứng được yêu cầu của nhiều thị trường khó tính”, ông Vũ Việt Anh cho biết thêm.

Tuy nhiên, đại diện Sở NN-PTNT Hải Dương cho rằng nghề nuôi cá lồng bè ở tỉnh vẫn còn một số hạn chế về kỹ thuật, không đồng đều về chất lượng, áp lực lên môi trường hay nhiều nơi nuôi tự phát, tiềm ẩn rủi ro...

“Qua diễn đàn, chúng tôi mong muốn nhận được sự chia sẻ về kinh nghiệm, kỹ thuật từ các chuyên gia, cơ quan quản lý cũng như bà con nông dân các địa phương khác”, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Hải Dương nhấn mạnh.

Diễn đàn 'Phát triển nuôi cá lồng bè bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái' được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến ngày 2/12. Ảnh: Tùng Đinh.

Diễn đàn “Phát triển nuôi cá lồng bè bền vững, đảm bảo môi trường sinh thái” được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến ngày 2/12. Ảnh: Tùng Đinh.

Hiện trạng nuôi cá lồng bè ở Hải Dương

Trên địa bàn tỉnh Hải Dương, nuôi cá lồng tập trung phát triển chủ yếu trên sông Thái Bình và sông Kinh Thầy thuộc địa bàn huyện Nam Sách, Thành phố Hải Dương, Thị xã Kinh Môn, Kim Thành, Ninh Giang, Thanh Hà, Tứ Kỳ, Cẩm Giàng và Thành phố Chí Linh. Một số địa phương có số lượng lồng nuôi lớn Thanh Hà, Thành phố Hải Dương, Tứ Kỳ, Nam Sách.

Thời gian qua, nuôi thủy sản lồng bè được duy trì, phát triển mạnh về quy mô nuôi. Qua thống kê, kiểm tra tới thời điểm 31/5/2021, trên địa bàn tỉnh có 9 huyện, thị xã, thành phố nuôi cá lồng với 7.040 lồng nuôi/451 hộ nuôi.

Tính đến năm 2020, sản lượng cá lồng của tỉnh khoảng 17.000 tấn (chiếm 18,02% sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh). Việc phát triển cá lồng bè đã đóng góp tích cực vào tăng sản lượng nuôi thủy sản của tỉnh Hải Dương, nhưng tỷ lệ còn chưa cao, sản lượng còn thấp, chưa phát huy hết tiềm năng lợi thế của địa phương.

Năng suất nuôi cá lồng của tỉnh Hải Dương mới chỉ ở mức trung bình đạt 4 tấn/lồng, thấp hơn so với mặt bằng chung của vùng Trung du Miền núi phía Bắc (4,5 tấn/lồng), thấp hơn khá nhiều so với những địa phương người dân có điều kiện kinh tế đầu tư, kỹ thuật nuôi thâm canh cao như tỉnh Bắc Ninh (7,2 tấn/lồng), Hà Nội (5,1 tấn/lồng) nhưng lại cao hơn đối với các tỉnh Hòa Bình (1,87 tấn/lồng), Phú Thọ (3,3 tấn/lồng), Hưng Yên (3,5 tấn/lồng)...

Xem thêm
Điều động 1 kíp tàu tuần tra, phòng chống khai thác IUU

Từ ngày 22/4, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu điều động 1 kíp tàu tuần tra, kiểm soát kết hợp tuyên truyền phòng, chống khai thác IUU trên vùng biển do đơn vị quản lý.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm