| Hotline: 0983.970.780

Quảng Trị: Hướng đến nền nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu

Thứ Ba 28/04/2020 , 16:32 (GMT+7)

Dự án “Cải thiện nông nghiệp có tưới” (WB7) với mục tiêu cải thiện tính bền vững của sản xuất nông nghiệp nhằm hướng đến nền nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu.

Người nông dân đồng tình, ủng hộ và chủ động nhân rộng

Ông Nguyễn Hữu Tâm, Phó Chi cục Trưởng, Chi cục Trồng trọt-Bảo vệ thực vật Quảng Trị cho biết, được triển khai tại tỉnh Quảng Trị ba năm nay, dự án “Cải thiện nông nghiệp có tưới” (WB7)có mục đích cải thiện sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh nhằm nâng cao giá trị gia tăng, bền vững của nông nghiệp và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở cải thiện hệ thống tưới tiêu và thể chế, chính sách quản lý thủy lợi, theo định hướng Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới và đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

Dự án có 4 hợp phần, trong đó hợp phần 3 là “Hỗ trợ thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu” (CSA). Hợp phần này nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất nông nghiệp, tăng hiệu ích sử dụng nước, tăng thu nhập cho nông dân và giảm tính dễ tổn thương với các tác động bất lợi của thiên tai, đồng thời giảm phát thải gây tác động tiêu cực môi trường từ sản xuất nông nghiệp, từ đó đúc rút kinh nghiệm để nhân rộng trên toàn tỉnh.

Đến nay, hợp phần 3 xây dựng được 15 mô hình SXNN ứng dụng các thực hành CSA bao gồm: 6 mô hình “Cánh đồng lớn sản xuất lúa chất lượng cao theo hướng hàng hóa và nâng cao hiệu quả trên đơn vị diện tích”; 6 mô hình “Sản xuất cây trồng cạn (lạc, ngô) áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm theo hướng hàng hóa; 1 mô hình “Sản xuất rau an toàn áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm” tại phường Đông Thanh, TP. Đông Hà; 2 mô hình “Sản xuất tiêu an toàn áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm”.

Trồng lạc theo mô hình CSA ở HTX Cổ Mỹ, Vĩnh Giang, Vĩnh Linh.

Trồng lạc theo mô hình CSA ở HTX Cổ Mỹ, Vĩnh Giang, Vĩnh Linh.

Hợp phần này đã tăng cường năng lực cung cấp các dịch vụ nông nghiệp nhằm thúc đẩy việc nhân rộng các thực hành và các hệ thống CSA. Phổ biến kiến thức về CSA, đào tạo các thực hành và hỗ trợ mở rộng ứng dụng các thực hành CSA bền vững. Thực hiện điều tra cơ bản khi bắt đầu triển khai và khi kết thúc dự án để đánh giá các kết quả đầu ra của dự án trong tỉnh (so sánh các chỉ số trước và sau dự án). Tổ chức hội thảo để các bên liên quan thảo luận, đánh giá các hệ thống CSA và các hoạt động, rút ​​bài học kinh nghiệm và đề xuất kiến nghị phục vụ phát triển CSA.

Ông Nguyễn Hữu Tâm cho biết, có thể khẳng định, việc triển khai các mô hình CSA đến nay đã thành công, được chính quyền cơ sở, hợp tác xã, người nông dân đồng tình, ủng hộ và chủ động nhân rộng. Thông qua các mô hình CSA người dân được hưởng lợi trên cả 3 mặt về kinh tế-xã hội-môi trường. Về kinh tế người dân được hỗ trợ một phần các vật tư thiết yếu như: Giống lúa, công cụ gieo cấy, phân bón, chế phẩm Trichoderma...

Khi áp dụng thực hành các kỹ thuật quản lý tổng hợp dinh dưỡng và dịch hại cây trồng (ICM) thích ứng với biến đổi khí hậu trên cây lúa thì người dân được thực hành gieo cấy bằng công cụ sạ hàng, sử dụng các giống lúa mới, ngắn ngày, chất lượng cao, đảm bảo phẩm cấp; được hỗ trợ áp dụng chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM); hỗ trợ áp dụng quy trình tưới nông-lộ- phơi...

Qua đó, đã giảm số lần phun thuốc bảo vệ thực vật từ 2-3 lần/vụ so với trước đây; giảm lượng phân đạm Urê từ 30-36kg/ ha/vụ; tiết kiệm được 30kg giống/ha, giảm công chăm sóc và hạn chế sâu bệnh gây hại.

Mặc dù, tiết kiệm rất nhiều các loại vật tư nông nghiệp, tiết kiệm nước nhưng năng suất lúa bình quân trên diện tích áp dụng CSA vẫn cao hơn ruộng đối chứng đại trà từ 5-6 tạ/ha/vụ. Qua đánh giá nhiều vụ cho thấy lợi nhuận bình quân ở các mô hình CSA cao hơn đại trà từ 5-7 triệu đồng/ha/vụ.

Bộ tiêu chí nhân rộng đại trà và nhân rộng chính

Về xã hội dự án góp phần nâng cao nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường, giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu trong hoạt động sản xuất. Các tổ chức xã hội (hội phụ nữ, hội nông dân) đã tham gia quản lý sản xuất và góp phần vào việc đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ sản xuất mới. Cán bộ địa phương và người dân đã thấy được những hiệu ích thiết thực mang lại từ mô hình như: làm chủ được quy trình kỹ thuật chuyển giao, thực hành đồng bộ, thay đổi phương thức tổ chức sản xuất trên cánh đồng lớn, cơ giới hóa thuận lợi và tưới tiêu hợp lý, khoa học. Từ đó, người dân, HTX chủ động nhân rộng thực hành CSA cho các vùng lân cận và các vùng sản xuất khác ở địa phương.

Bên cạnh hiệu quả về kinh tế, xã hội, hiệu quả về môi trường cũng thể hiện rõ rệt thông qua kết quả đo lượng phát thải khí nhà kính (CH4, N2O và CO2) ở mô hình CSA tại thôn Phước Thị, xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh vụ hè thu năm 2018 cho thấy khi áp dụng các biện pháp canh tác theo mô hình CSA thì tổng phát thải giảm từ 1,56 kg CO2/kg thóc (ở ruộng đại trà) xuống còn 0,9 kg CO2/kg thóc ở ruộng mô hình.

Chi cục Trồng trọt-BVTV Quảng Trị tổ chức hội thảo đánh giá mô hình CSA.

Chi cục Trồng trọt-BVTV Quảng Trị tổ chức hội thảo đánh giá mô hình CSA.

Đối với các mô hình CSA trên cây rau, màu người dân được sử dụng công cụ gieo hạt thay thế phương pháp gieo thủ công giúp tiết kiệm công và đảm bảo mật độ gieo. Sử dụng giống lạc L14 đã giảm được tỉ lệ bệnh hại, đặc biệt là bệnh héo vàng do nấm và héo xanh do vi khuẩn. Sử dụng biện pháp che phủ ni lông giúp điều hòa vi khí hậu trong đất ở giai đoạn đầu vụ khi nhiệt độ xuống thấp, giữ kết cấu đất tơi xốp, hạn chế bốc thoát hơi nước và dinh dưỡng, hạn chế cỏ dại…

Từ đó đã giảm được phân bón, công lao động, lượng nước tưới, cây sinh trưởng tốt. Nhờ áp dụng IPM nên đã kiểm soát tốt các đối tượng dịch hại, giảm được số lần phun thuốc so với đại trà; nâng cao được nhận thức của cán bộ địa phương và người dân về ICM và CSA.

Tính đến nay qua 3 năm triển khai, diện tích được hỗ trợ thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh Quảng Trị là 5.600 ha. Trong đó diện tích thực hiện mô hình “Cánh đồng mẫu” 188,9 ha, diện tích CSA nhân rộng chính 3.527 ha, diện tích CSA nhân rộng đại trà 1.888 ha.

Theo ông Nguyễn Hữu Tâm, kết quả đó là bằng chứng rõ ràng về hiệu quả, tính lan tỏa của dự án đến người dân, HTX. Nhiều nông dân cho biết việc áp dụng các quy trình kỹ thuật thực hành CSA khá đơn giản nhưng mang lại hiệu quả thiết thực.

Đến nay dự án đã xây dựng được Bộ quy trình kỹ thuật thực hành CSA cho các đối tượng cây trồng chính (lúa, lạc, ngô, rau màu, hồ tiêu); đồng thời xây dựng được các bộ phim hướng dẫn kỹ thuật thực hành CSA, các tờ rơi, áp phích tuyên truyền về kỹ thuật. Những tài liệu này sẽ được cung cấp đến tận các HTX và người dân để phổ biến thực hành CSA trên diện rộng.

Dự án cũng đã xây dựng được Bộ tiêu chí nhân rộng đại trà và nhân rộng chính, đây là cẩm nang cho cơ quan chuyên môn, chính quyền cơ sở để quy hoạch vùng, lựa chọn vùng tập trung để phổ biến thực hiện CSA. Hy vọng chính quyền các địa phương, người nông dân, HTX trên toàn tỉnh sẽ tiếp tục nhân rộng thực hành CSA trên quy mô lớnnhằm góp phần tạo nên sự thay đổi lớn cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh, đưa nông nghiệp tỉnh Quảng Trị tăng trưởng bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Xem thêm
Nuôi 30 con chồn hương sinh sản, doanh thu 300 triệu đồng/năm

QUẢNG BÌNH Với 30 con chồn hương sinh sản và 20 con chồn thương phẩm, mỗi năm gia đình anh Đức thu về khoảng 300 triệu đồng.

Truy tố những trường hợp để chó, mèo gây hậu quả nghiêm trọng

Đắk Lắk sẽ điều tra, truy tố, xử lý nghiêm những trường hợp không tuân thủ quy định trong việc nuôi, quản lý chó, mèo để xảy ra hậu quả nghiêm trọng.

Đốt rơm rạ là... đốt tiền

ĐỒNG THÁP Chưa khi nào nông dân thấy giá trị của rơm rạ như bây giờ, thu hoạch xong không đốt bỏ mà bán cho hợp tác xã, xử lý thành các sản phẩm đa dụng...

Bình luận mới nhất

Nông nghiệp tuần hoàn: Làm sao để tiết kiệm nguồn phụ phẩm thừa từ chế biến thủy sản? Trả lời: Ủ vi sinh để tận dụng, tiết kiệm phụ phẩm thừa từ quá trình chế biến thủy hải sản để tạo ra sản phẩm dành cho cây trồng. Ví dụ như các sản phẩm Đạm cá vi sinh, Đạm trứng vi sinh… Tình hình kinh thế thế giới nói chung hiện nay, Việt Nam nói riêng, thì nhu cầu về lương thực, cụ thể là ngành nông nghiệp đang rất thiết yếu và sáng sủa so với những ngành khác, vì vậy sản phẩm dành cho cây trồng, nhất là hữu cơ và sinh học được Nhà nước ủng hộ, cũng tốt cho môi trường nói chung. Còn khó khăn về pháp lý là việc sản xuất và lưu hành sản phẩm, như phân bón hoặc thuốc bảo vệ thực vật cho cây trồng thì yêu cầu các loại giấy phép nhiều như: Giấy phép môi trường, phòng cháy chữa cháy, chứng nhận ISO… Tuy nhiên, với dòng sản phẩm Chế phẩm vi sinh vật, điều kiện dễ dàng hơn, theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6168:2002 –Chế phẩm vi sinh vật phân giải xenlulozo dành cho cây trồng. Doanh nghiệp hoặc hợp tác xã chỉ cần sản xuất đúng thực tế là đã có thể sản xuất và lưu hành sản phẩm được. Đây là 1 hướng mở để tận dụng được nguồn phụ phẩm trong ngành Chế biến thủy sản mà một số công ty đã và đang áp dụng vào thực tế. Minh Khang: 0967.292.160
+ xem thêm