Chất lượng tôm giống cung ứng cho người nuôi hiện nay khá tốt
Ông đánh giá như thế nào về vai trò của tôm giống sạch bệnh đối với hiệu quả và sự bền vững của ngành nuôi tôm công nghiệp tại Việt Nam?
Hiện nay, với gần 150.000ha nuôi tôm thâm canh, công nghiệp, tôm giống sạch bệnh đóng vai trò rất quan trọng. Câu nói “nhất giống, nhì môi, tam mồi, tứ kỹ” đã khẳng định vị trí then chốt của con giống trong sản xuất tôm nước lợ. Trong mô hình nuôi thâm canh công nghiệp, cùng với con giống, việc kiểm soát tốt các yếu tô môi trường, thức ăn, dịch bệnh… sẽ tạo nên thành công của vụ nuôi.

Ông Trần Công Khôi, Trưởng Phòng Giống và Thức ăn thủy sản, Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ NN-MT) cho biết, chất lượng tôm giống cung ứng cho người nuôi hiện nay nhìn chung khá tốt. Ảnh: Hồng Thắm.
Ngay cả với các loại hình nuôi khác, chẳng hạn như quảng canh, tôm - rừng, tôm - lúa…, tôm giống sạch bệnh cũng đóng vai trò quan trong. Việc sử dụng con giống chất lượng cao, kết hợp với những cải tiến trong quy trình nuôi giúp nâng cao tỷ lệ sống, tăng năng suất và chất lượng, qua đó nâng cao hiệu quả kinh tế.
Với tầm quan trọng như vậy, theo ông, hiện nay chất lượng tôm giống ở nước ta ra sao?
Chất lượng tôm giống cung ứng cho người nuôi hiện nay nhìn chung khá tốt. 100% cơ sở sản xuất, ương dưỡng tôm bố mẹ đều đã được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện và được kiểm tra duy trì theo quy định. Với các cơ sở ương dưỡng giống từ ấu trùng, hầu hết cũng được cấp chứng nhận đủ điều kiện, kiểm tra duy trì theo quy định.
Giống bố mẹ tôm thẻ chân trắng được chọn tạo hoặc nhập khẩu từ những cơ sở uy tín; trong khi đó giống bố mẹ tôm sú tuy vẫn còn khai thác từ tự nhiên nhưng tỷ lệ sử dụng giống bố mẹ chọn tạo đã tăng so với những năm trước.

Cùng với con giống chất lượng cao, việc kiểm soát tốt các yếu tô môi trường, thức ăn, dịch bệnh… sẽ tạo nên thành công của vụ nuôi. Ảnh: Hồng Thắm.
An toàn sinh học trong trại giống đã được các cơ sở quan tâm thực hiện. Việc tuân thủ các quy định về thời gian sử dụng giống bố mẹ cũng được thực hiện nghiêm túc.
Thực tế cho thấy, dù chất lượng tôm giống đã được cải thiện, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Ông có thể chia sẻ những biện pháp mà Cục Thủy sản và Kiểm ngư đã, đang và sẽ triển khai để siết chặt hơn nữa chất lượng tôm giống?
Tuy đã được cải thiện, nâng cao trong thời gian vừa qua, nhưng chất lượng tôm giống vẫn là thách thức lớn. Việc gia hóa tôm bố mẹ đòi hỏi nhiều thời gian, không phải “một sớm một chiều” mà có được thành công, đồng thời còn tốn nhiều nhân lực, vật lực, vì vậy, phải những cơ sở có tiềm lực mới có thể tham gia được. Do đó, nguồn giống còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên và nhập khẩu.
Vẫn còn một số cơ sở sản xuất, ương dưỡng tôm giống chưa thực hiện chứng nhận đủ điều kiện hay chưa thực hiện an toàn sinh học trong quá trình sản xuất, ương dưỡng.
Vẫn còn những lô tôm giống chưa qua kiểm dịch lưu thông trên thị trường, nhất là tại các điểm mua bán giống tôm tự phát.
Thời gian qua, Cục Thủy sản và Kiểm ngư (Bộ NN-MT) đã ban hành Công văn số 161/TS-GTATS ngày 24/1/2025 gửi các địa phương về việc quản lý, phát triển giống thủy sản, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản năm 2025.
Trong thời gian tới, Cục sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý, kiểm soát chất lượng tôm giống. Một số giải pháp trọng tâm là: Siết chặt quy trình cấp chứng nhận và kiểm tra điều kiện sản xuất; Tăng cường kiểm soát nguồn gốc và chất lượng giống bố mẹ; Thúc đẩy thực hành an toàn sinh học và an toàn dịch bệnh; Kiểm tra, kiểm soát tôm giống lưu thông trên thị trường.

Chất lượng tôm giống là yếu tố then chốt quyết định thành công của mỗi vụ nuôi. Ảnh: Hồng Thắm.
Ngoài ra, một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới là tiếp tục huy động nguồn lực để đẩy mạnh công tác chọn tạo, gia hóa tôm bố mẹ tại Việt Nam. Điều này sẽ giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn tôm bố mẹ nhập khẩu, đồng thời nâng cao chất lượng và tính chủ động của ngành sản xuất tôm giống trong nước.
Ông nghĩ sao về việc xây dựng một hệ thống truy xuất nguồn gốc tôm giống toàn diện tại Việt Nam?
Hiện nay, Cục đã có Cơ sở dữ liệu giống thủy sản, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường (https://csdl.tongcucthuysan.gov.vn). Tuy nhiên, hệ thống mới chỉ thống kê danh sách các cơ sở đủ điều kiện sản xuất, ương dưỡng tôm giống, chứ chưa truy xuất được đến từng lô giống. Như vậy, việc xây dựng một hệ thống truy xuất nguồn gốc tôm giống toàn diện tại Việt Nam cũng đã được đề cập đến.
Trong thời gian tới đây, khi nâng cấp Cơ sở dữ liệu, chúng tôi sẽ bổ sung tài khoản cho các cơ sở sản xuất, ương dưỡng tôm giống, qua đó các cơ sở sẽ công khai, minh bạch thông tin về chất lượng sản phẩm giống của mình bán ra. Người nuôi sẽ dễ dàng lựa chọn sản phẩm tốt, phù hợp với điều kiện và trình độ nuôi của mình.
Chủ động tôm bố mẹ không phải chuyện “một sớm một chiều”
Gia hóa tôm bố mẹ là giải pháp quan trọng giúp Việt Nam giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, nhưng quá trình này vẫn gặp nhiều thách thức. Theo ông, đâu là rào cản lớn nhất khiến việc này chưa đạt được tốc độ như kỳ vọng và cần những giải pháp gì để tháo gỡ?
Việc chọn tạo, gia hóa, sản xuất, ương dưỡng tôm bố mẹ hiện vẫn đang gặp khó khăn. Qua tìm hiểu, nghiên cứu, có một số trở ngại trong việc đẩy nhanh tốc độ gia hóa tôm bố mẹ, như: Hạ tầng phục vụ cho nghiên cứu, chọn tạo tôm bố mẹ khá khó khăn. Rất khó để tìm được địa điểm đáp ứng yêu cầu về an toàn sinh học cho việc nghiên cứu, chọn tạo, gia hóa tôm bố mẹ. Các cơ sở nghiên cứu có địa điểm đáp ứng yêu cầu kỹ thuật nhưng vướng các thủ tục pháp lý nên không thể phối hợp, liên kết với các cơ sở gia hóa có tiềm lực kinh tế để tổ chức triên khai.
Bên cạnh đó, nguồn nguyên liệu di truyền phục vụ cho chọn giống cần nhiều, cơ sở dữ liệu về di truyền lại chưa đủ lớn để phục vụ cho công tác gia hóa, chọn giống. Không có nhiều cơ sở đáp ứng được yêu cầu này.
Việc gia hóa tôm bố mẹ đòi hỏi nhiều thời gian, không phải “một sớm một chiều” mà có được thành công, đồng thời còn tốn nhiều nhân lực, vật lực, vì vậy, phải những cơ sở có tiềm lực mới có thể tham gia được.
Vậy theo ông, để đẩy mạnh quá trình gia hóa tôm bố mẹ, cần có sự phối hợp như thế nào giữa Nhà nước, doanh nghiệp và các viện nghiên cứu?
Điều này là rất cần thiết. Nhà nước tạo hành lang pháp lý, các cơ chế chính sách giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong tiếp cận và triển khai nghiên cứu, gia hóa. Các viện nghiên cứu có nguồn nhân lực chất lượng cao, có điều kiện cơ sở vật chất phù hợp. Các doanh nghiệp có nguồn lực dồi dào và luôn có mong muốn làm chủ được nguồn giống tôm phục vụ nuôi.
Với vai trò là cơ quản quản lý Nhà nước về nuôi trồng thủy sản, Cục Thủy sản và Kiểm ngư sẵn sàng ủng hộ các đơn vị tham gia để đẩy nhanh và mạnh việc gia hóa tôm bố mẹ từ nguồn trong nước.
Xin cảm ơn ông!