| Hotline: 0983.970.780

Ưu tiên xứng đáng giống bản địa trong chiến lược phát triển chăn nuôi

Thứ Hai 01/04/2024 , 06:30 (GMT+7)

Ngành chăn nuôi tỉnh Quảng Ninh còn nhiều khó khăn, tuy nhiên, việc tập trung vào các đối tượng nuôi lợi thế sẽ là hướng đi phù hợp để phát triển chăn nuôi bền vững.

Gà Tiên Yên là sản phẩm chăn nuôi chủ lực của tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: Nguyễn Thành.

Gà Tiên Yên là sản phẩm chăn nuôi chủ lực của tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: Nguyễn Thành.

Theo đánh giá của Sở NN-PTNT tỉnh Quảng Ninh, những năm gần đây, lĩnh vực chăn nuôi trên địa bàn tỉnh có sự phát triển chậm lại so với những giai đoạn trước và so với kịch bản tăng trưởng của ngành.

Hiện chăn nuôi không phải là ngành sản xuất lợi thế của tỉnh Quảng Ninh và luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, đến nay vẫn chưa giải quyết được.

Đại diện Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh cho biết, những khó khăn hiện hữu của ngành chăn nuôi đó là khó tìm được mặt bằng, diện tích, vị trí nuôi phù hợp với những tiêu chuẩn thú y hiện nay.

Bên cạnh đó, trình độ của người dân không cao, chăn nuôi nông hộ vẫn là chủ yếu; chi phí đầu vào cao hơn so với các tỉnh thành khác do không có cơ sở sản xuất tại chỗ, đều phải nhập từ nơi khác về.

Với tiêu chí quỹ đất dành cho các dự án chăn nuôi, địa hình ở Quảng Ninh phần lớn vùng thấp là vùng dân cư đông đúc, còn lại là bờ biển và đồi núi dốc.

Vì lẽ đó, không chỉ khó san gạt, đào đắp xây dựng chuồng trại, mà ngay từ khâu thủ tục hành chính cấp đất cũng vướng bởi các quy định về sử dụng, chuyển đổi đất rừng, mặt nước.

Đáng chú ý, chi phí vật tư đầu vào của chăn nuôi Quảng Ninh cao, khiến cho ngành mất lợi thế cạnh tranh. Đôi khi sản phẩm chăn nuôi làm ra tại Quảng Ninh có giá bán cao hơn sản phẩm các thương lái vận chuyển từ các tỉnh, thành khác về tiêu thụ tại Quảng Ninh.

Bà Chu Thị Thu Thủy, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Quảng Ninh cho biết, khó khăn như vậy nhưng không phải không có hướng mở cho chăn nuôi Quảng Ninh.

Cần hướng tới đối tượng nuôi đặc sản, có tính đặc hữu địa phương mà nơi khác không có hoặc có cũng không đủ đáp ứng nhu cầu thị trường.

Cùng với đó, áp dụng quy trình chăn nuôi hữu cơ, giảm tối đa thức ăn công nghiệp, chăn thả, ăn thức ăn xanh, rau cám, ngô hạt và nuôi đủ thời gian sinh trưởng phát triển của vật nuôi. Mô hình chăn nuôi hướng đến gắn với du lịch, sinh thái, gắn với đảm bảo an toàn dịch bệnh, bảo vệ vệ môi trường.

Hiện nay, về các sản phẩm chăn nuôi thông thường, Quảng Ninh khó có thể cạnh tranh với nhiều tỉnh, thành đồng bằng lân cận. Tuy nhiên, sản phẩm chăn nuôi đặc sản là lợi thế của Quảng Ninh. Bởi tỉnh có lượng khách du lịch lớn, nhiều người sẵn sàng chi trả cao để được thưởng thức những món ẩm thực tươi ngon, mới lạ.

Những vật nuôi đặc sản thuận lợi phát triển có thể kể đến như lợn Móng Cái, gà Tiên Yên, gà bản Đầm Hà, ngan sao… vốn là đối tượng nuôi mang tính địa phương, bản địa cao.

Ngoài ra, có thể kể đến những vật nuôi là động vật hoang dã đã được cho phép chăn nuôi thương phẩm, như lợn rừng, lợn hương, hươu, nai, dúi, nhím…

Lợn Móng Cái được chăn thả theo hướng bán tự nhiên. Ảnh: Nguyễn Thành.

Lợn Móng Cái được chăn thả theo hướng bán tự nhiên. Ảnh: Nguyễn Thành.

Bà Thủy chia sẻ thêm, cùng với mở rộng đối tượng nuôi cần thắt chặt quy trình nuôi, nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm nuôi ra đến thị trường, đến tay người tiêu dùng phải có sự khác biệt, vượt trội, ưu thế hơn hẳn sản phẩm cùng loại.

Thực tế giống lợn Móng Cái, gà Tiên Yên đã khẳng định ưu thế về giống, tuy nhiên chất lượng sản phẩm đưa ra thị trường thời gian qua không đồng đều, ảnh hưởng đến thương hiệu sản phẩm.

Điều này là do sự khác biệt giữa quy trình nuôi theo phương thức truyền thống với cơ chế thức ăn tự nhiên, thô, giàu xơ, ngô, khoai, sắn, nuôi chăn thả... so với phương thức nuôi khép kín, phụ thuộc nguồn thức ăn công nghiệp, nuôi trong thời gian ngắn.

Theo đánh giá của Sở NN-PTNT Quảng Ninh, tỉnh đang có lợi thế nhân đàn gia cầm, thủy cầm, khi có thể nhân rộng các mô hình nuôi ngan, gà bản địa dưới tán rừng, nuôi vịt ở những vùng ven biển, bãi sú vẹt, đầm lầy.

Đặc biệt với diện tích rừng sản xuất lớn, Quảng Ninh có thể kết hợp phát triển kinh tế rừng và chăn nuôi động vật hoang dã được cấp phép, vừa nâng cao giá trị kinh tế rừng, vừa phát triển chăn nuôi đúng hướng.

Có thể nói, chăn nuôi Quảng Ninh vẫn có những lợi thế nhất định. Điều kiện để phát huy những lợi thế trên chính là việc nâng cao trình độ canh tác chăn nuôi của người dân; nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong quá trình chăn nuôi.

Tỉnh Quảng Ninh cần tạo điều kiện phát triển những cơ sở sản xuất, cung ứng giống vật nuôi đặc sản, có tính địa phương; tạo được hành lang thúc đẩy kinh tế rừng tổng hợp, trong đó hình thành những mô hình chăn nuôi dưới tán rừng…

Năm 2023 tổng đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh không đạt theo kế hoạch của kịch bản tăng trưởng kinh tế, đạt 98% so với kế hoạch tỉnh giao. Trong đó, đàn trâu gần 25.500 con; đàn bò đạt trên 29.000 con; đàn lợn gần 296.300 con; đàn gia cầm đạt trên 5,4 triệu con. Do tổng đàn đạt thấp nên tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại đạt trên 101.000 tấn.

Xem thêm
Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Cần chế biến sâu cho 'tứ đại danh dược'

HÀ TĨNH Nhung hươu là một trong 'tứ đại danh dược' (sâm, nhung, quế, phụ), tuy nhiên giá trị gia tăng từ chế biến sâu sản phẩm nhung hươu hiện đang bị bỏ ngỏ.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm