Chăn nuôi gia súc ăn cỏ không thể thiếu ngô sinh khối
Về nhu cầu tiêu thụ thịt đại gia súc, theo số liệu ước tính Hà Nội cần hơn 30.000 tấn mỗi năm, do đó vẫn phải nhập từ các tỉnh thành khác và nhập từ nước ngoài. Nghĩa là dư địa cho việc tăng đàn vẫn còn rất lớn.
Cũng như tình trạng chung của cả nước, từ trước đến nay để đáp ứng cho nhu cầu ăn uống của đàn đại gia súc nông dân Hà Nội vẫn chủ yếu tận dụng nông sản dạng “đầu thừa đuôi thẹo" hoặc cỏ dại. Dinh dưỡng có trong những loại thức ăn này rất hạn chế dẫn đến chất lượng thịt, sữa của gia súc không tốt.
Để cải thiện tình trạng đó, phải tăng chất lượng thức ăn thô xanh. Ngô là một trong những thức ăn thô xanh có hàm lượng dinh dưỡng cao, sạch, dễ tiêu hóa, không chứa chất kháng dinh dưỡng. Hơn thế ngô còn nhanh cho thu hoạch, năng suất sinh khối cao (40-50 tấn/ha), phù hợp để ủ chua với thời gian bảo quản được rất lâu.
Với đặc thù có nhiều diện tích đất bãi nhất là quỹ đất sản xuất vụ đông trên chân 2 vụ lúa giúp Hà Nội rất thuận tiện để trồng ngô sinh khối. Bắt đầu từ vụ đông năm 2020, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã xây dựng mô hình “Sản xuất ngô sinh khối làm thức ăn chăn nuôi” với mục đích nâng cao giá trị sản xuất. Mô hình 50 ha có sự tham gia của 1 HTX và 1 nhóm hộ với tổng cộng 150 gia đình, tất cả đều ở huyện Ba Vì.
Đây cũng là vùng chăn nuôi đại gia súc có tiếng nhất của Thủ đô, thời gian gần đây đang phát triển mạnh đàn bò sữa chất lượng cao, bò thịt sinh khối lớn như BBB, chất lượng tốt như lai Wagyu (bò nguồn gốc Nhật Bản)…
Cơ hội cho vụ đông
Những điều kiện tham gia mô hình này gồm: Có đơn tự nguyện và sẵn sàng tiếp thu các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới; có đủ điều kiện đất đai, lao động và vốn đối ứng để thực hiện mô hình; thực hiện đúng kỹ thuật và đúng quy định; cam kết chưa được nhận hỗ trợ từ bất kỳ nguồn kinh phí nào thuộc ngân sách nhà nước cho cùng một nội dung.
Giống ngô được chọn là NK 7328 của Công ty Syngenta- một trong những giống cho sinh khối nhanh. Theo tính toán, hiệu quả kinh tế 1 ha trồng ngô sinh khối trong khoảng thời gian 80 ngày (khi ngô có bắp và chín sữa) sẽ thu được trung bình 50 tấn cây tươi, với giá bán tối thiểu 700đ/kg tươi, người dân thu về khoảng 35 triệu đồng.
Trong khi đó nếu sản xuất ngô lấy hạt, thời gian khoảng 110 ngày 1 ha thu được khoảng 6 tấn, với giá bán trung bình khoảng 4,5 triệu đồng/tấn, người dân thu về khoảng 27 triệu đồng/ha. Như vậy so với sản xuất ngô lấy hạt thì sản xuất ngô sinh khối thời gian rút ngắn khoảng 30 ngày mà lại cho thu nhập cao hơn khoảng 8 triệu đồng.
Mặt khác trồng ngô sinh khối còn không mất công phơi, tẽ hạt và bảo quản. Hiệu quả xã hội, góp phần tăng vụ trên đất 2 lúa, nâng cao thu nhập cho người sản xuất, đáp ứng nhu cầu thức ăn thô xanh cho dàn trâu, bò và các gia súc ăn cỏ khác phục vụ phát triển ngành chăn nuôi, nâng cao hiệu quả sử dụng và tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích đất.
Một điều lưu ý là nếu cỏ voi có thể cắt lúc nào cũng được, để cho trâu bò ăn dần, hợp với kiểu chăn nuôi nhỏ lẻ tự sản tự tiêu thì ngô sinh khối có lứa, đến ngày là phải thu hoạch mới đảm bảo chất lượng. Hơn thế ngô sinh khối thường gia súc không thể ăn hết một lúc nên phải ủ chua dùng dần nên phù hợp với kiểu chăn nuôi quy mô vừa và lớn.
Bởi thế mà toàn bộ mô hình trên đã được Công ty cổ phần T&T 159 hợp tác và bao tiêu sản phẩm.
Hướng dẫn kỹ thuật trồng ngô sinh khối
1. Thời vụ
Tùy thuộc vào điều kiện thời tiết và hệ thống luân canh cây trồng từng địa phương để lựa chọn khung thời vụ thích hợp nhất. Ở một số vùng có điều kiện thuận lợi (đất bằng, chủ động tưới,..) thì thu hoạch xong vụ này là có thể trồng vụ khác.
2. Giống
Sử dụng giống ngô có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, ít nhiễm sâu bệnh, năng suất sinh khối cao, có khả năng trồng được mật độ cao, chịu hạn như VN172, ĐH17-5, LCH-9, NK7328, PSC747…
3. Kỹ thuật canh tác
a. Làm đất
Làm đất sạch cỏ dại, cày rạch hàng, lên luống hoặc không tùy điều kiện đất và thời vụ. Ở vùng trung du, miền núi hoặc trồng ngô vụ đông trên chân đất 2 vụ lúa nên áp dụng kỹ thuật làm đất tối thiểu. Nên gieo hạt bằng máy gieo với chức năng rạch hàng, rải phân, gieo và lấp hạt hoặc máy gieo đẩy tay. Đất vụ đông nên gieo hạt ủ nứt mầm hoặc làm bầu để đảm bảo mật độ và tiết kiện công lao động.
b. Giống và mật độ gieo trồng
Lượng giống cho 1 ha: 27 - 30 kg; mật độ thích hợp: 7,7 - 8,3 vạn cây/ha; khoảng cách gieo: 60 - 65 cm x 20 cm/cây.
c. Bón phân
Bón 8 - 10 tấn/ha phân chuồng hoặc 2,5tấn phân hữu cơ vi sinh lót toàn bộ trước khi gieo hạt. Phân urê 340 - 350 kg, lân supe Lâm Thao 600 - 650 kg, kali 165 - 170 kg; Bón lần 1 khi ngô 5 - 7 lá (toàn bộ lân + 1/3 lượng đạm và ½ lượng kali); Bón lần 2 khi ngô 9 - 10 lá (1/3 lượng đạm + 1/2 lượng kali); lần 3 trước khi trỗ khoảng 10 ngày, bón lượng phân còn lại.
Trường hợp sử dụng phân hỗn hợp như NPK Lâm Thao cần tính toán lượng bón tương đương với mức bón trên.
d. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh
Chăm sóc sớm để tạo lực cho cây; Phòng trừ cỏ dại và sâu bệnh sớm, đặc biệt là sâu đục thân, bệnh khô vằn và đốm lá. Tưới nước đảm bảo đủ ẩm; đối với vùng trung du, miền núi cần bố trí thời vụ để tránh hạn, đặc biệt ở các giai đoạn trước, trong và sau khi trổ cờ, tung phấn, phun râu.
đ. Thu hoạch
Thời điểm lý tưởng cắt cây ngô xanh để ủ chua là khi 50% số bắp trên cây ở giai đoạn chín sáp. Thu hoạch toàn bộ thân cây bao gồm cả bắp, cắt thành các lát từ 3 - 5 cm.
e. Hướng dẫn ủ chua cây ngô
Cây ngô tươi (thân, lá, bắp xanh) đã phơi héo 100 kg; rỉ mật; muối ăn 0,5 kg. Có thể thay thế rỉ mật bằng một số loại men vi sinh sau: Vi khuẩn lên men hỗn hợp (Homo Fermentative Lactic Acid Bacteria): Liều dùng 0,25 kg dạng hạt hoặc 1 lít dạng lỏng/tấn ngô nguyên liệu; BIO-PT1, NN1 (men vi sinh hoạt tính): 1 kg chế phẩm BIO-PT1 (hoặc NN1), 6 kg cám gạo (bột ngô nghiền), 1,5 kg muối ăn sử dụng cho 600 – 1.000 kg nguyên liệu ngô sinh khối.
Các bước ủ chua cây ngô như sau:
Bước 1: Sau khi thu hoạch, cắt nhỏ cây 3 - 5 cm, phơi tái dưới nắng khoảng nửa ngày để làm mất nước và héo. Đảm bảo độ ẩm khoảng 65%.
Bước 2: Cho nguyên liệu vào hố ủ (hoặc túi ủ) và nén chặt. Nếu sử dụng hố ủ, cần rải một lớp rơm hoặc cỏ khô xuống đáy hố, sau đó chất từng lớp thức ăn có độ dầy từ 40 - 60 cm. Sau mỗi lớp thức ăn cần nén chặt và đều. Hố ủ nên làm nơi khô ráo, thoát nước, nếu sử dụng quy mô lớn và lâu dài thì nên xây hố bằng gạch, xi-măng.
Bước 3: Cho thêm rỉ mật (men vi sinh): Dùng một ô-doa có dung tích 10 lít, lấy 5 lít rỉ mật hòa vào 5 lít nước sạch, tưới đều cho mỗi lớp ngô đã chất vào trong hố ủ trước khi nén. Cần định liệu rỉ mật đều cho tất cả các lớp thức ăn trong hố ủ theo tỷ lệ nêu trong bảng trên (hoặc rải 1 lớp men trộn với bột ngô lên trên mỗi lớp cây ngô xanh).
Bước 4: Đóng hố ủ: Kỹ thuật đóng hố ủ cũng thay đổi tùy theo từng loại hố. Trường hợp hố ủ lớn, có hai vách ngăn song song, sau khi đã nén kỹ lớp thức ăn trên cùng, phủ một lớp rơm (độ dày 5 cm) lên đỉnh hố, sau đó đổ một lớp đất dày (30 cm) lên trên và bao phủ toàn bộ bề mặt hố ủ. Cần che hố ủ bằng bạt, bằng tôn hoặc tấm lợp. Sau từ 6 - 7 tuần ủ, thức ăn có thể sử dụng.