| Hotline: 0983.970.780

Xuất khẩu cao su lấy lại đà tăng trưởng

Thứ Tư 18/12/2019 , 08:45 (GMT+7)

Giá cao su trên thị trường quốc tế tăng giúp tình hình xuất khẩu (XK) cao su của nước ta tăng trưởng khá trong thời gian qua.

16-11-08_cosu4_-_copy
Thị trường cao su thế giới có xu hướng tăng đang mang lại kỳ vọng cho người trồng cao su trong nước sau giai đoạn dài trượt giá mạnh.

Theo Tổng cục Hải quan, XK cao su của Việt Nam trong tháng 11/2019 đạt hơn 199 nghìn tấn, trị giá gần 262 triệu USD, tăng 10,8% về lượng và tăng 17,1% về trị giá so với tháng 11/2018. Lũy kế 11 tháng năm 2019, XK cao su đạt 1,5 triệu tấn, trị giá 2,02 tỷ USD, tăng 8% về lượng và tăng 7,7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.

Về giá XK, tháng 11/2019, giá cao su XK của nước ta bình quân đạt 1.316 USD/tấn, tăng 1,3% so với tháng 10/2019 và tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2018. Như vậy kể từ khi chạm đáy với mức giá XK bình quân vào tháng 12/2018 ở mức khoảng 1.200 USD/tấn, giá cao su từ đầu năm 2019 đến nay đã từng bước tăng khá, đạt ngưỡng bình quân 1.443 USD/tấn vào tháng 5/2019.

Tuy nhiên, liên tiếp từ tháng 5/2019 đến tháng 10/2019, giá cao su XK đã tụt dần, rớt xuống mức xấp xỉ 1.300 USD/tấn vào tháng 10/2019. Tuy nhiên từ tháng 10/2019 đến tháng nay, giá mủ XK tiếp tục có tín hiệu đáng mừng khi đang tăng trở lại.

Về thị trường XK, trong tháng 11/2019, Trung Quốc vẫn là thị trường XK cao su lớn nhất của Việt Nam, đạt 149,75 nghìn tấn, trị giá 195,59 triệu USD, tăng 15,1% về lượng và tăng 22,4% về trị giá so với tháng 11/2018, chiếm 75,2% tổng khối lượng cao su XK của Việt Nam. Lũy kế 11 tháng năm 2019, XK cao su sang Trung Quốc đạt 1,04 triệu tấn, trị giá 1,34 tỷ USD, tăng 10% về lượng và tăng 9,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018.

Ngoài Trung Quốc, nhiều thị trường XK cao su của Việt Nam trong 11 tháng năm 2019 cũng tăng khá về lượng so với cùng kỳ năm 2018 như: Ấn Độ tăng 29,7%; Hàn Quốc tăng 26,1%; Brazil tăng 21,6%; Banglades tăng 48,4%...

Đặc biệt với thị trường Ấn Độ, trong 10 tháng đầu năm 2019, NK cao su của Ấn Độ từ Việt Nam đạt 115,15 nghìn tấn, trị giá 172,7 triệu USD, tăng 44,1% về lượng và tăng 42,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018. Thị phần cao su Việt Nam trong tổng NK của Ấn Độ tiếp tục theo đà tích cực khi tăng từ 8,1% trong 10 tháng năm 2018, lên 13,1% trong 10 tháng năm 2019. Trong khi đó, nước này có xu hướng giảm NK cao su từ một số thị trường truyền thống như Indonesia, Thái Lan...

Trên thị trường quốc tế, trong 2 tuần đầu tháng 12/2019, giá cao su tại các sàn giao dịch chủ chốt đều có xu hướng tăng so với cuối tháng 11/2019 và hiện vẫn đang tiếp tục có xu hướng tăng.

Cụ thể: Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 2/2020 giao dịch ở mức khoảng 175,4 yên/kg (tương đương 1,62 USD/kg), tăng 2,6% so với cuối tháng 11/2019 (so với đầu tháng 11/2019, giá giao dịch bình quân chỉ 160 yên/kg). Tại Thượng Hải, giá cao su tự nhiên giao kỳ hạn tháng 2/2020 giao dịch ở mức 12.920 NDT/tấn (tương đương 1,84 USD/kg), tăng 3,1% so với cuối tháng 11/2019 (so với mức chỉ khoảng 118.00 NDT/tấn hồi đầu tháng 11/2019).

16-11-08_cosu
Diễn biến giá thu mua mủ cao su nước tại vườn và nhà máy tại Đắk Lắk trong tháng 12/2019 (ĐVT: Đ/độ TSC).

Theo phân tích, giá cao su liên tục tăng tăng trở lại thời gian gần đây là do thị trường lo ngại nguồn cung giảm, sau khi các nước sản xuất hàng đầu xem xét hạn chế XK cao su để hỗ trợ giá. Hội đồng Cao su Quốc tế Ba bên (ITRC) bao gồm Thái Lan, Indonesia và Malaysia đang xem xét hạn chế XK nhằm ổn định giá cao su. Thái Lan đã thông qua kế hoạch giảm 21% diện tích trồng cao su trên toàn quốc, đồng thời nâng giá XK cao su tăng gấp ba lần trong vòng 20 năm tới. Thái Lan hiện chiếm tới 40% nguồn cung cao su toàn cầu, nhưng giá cao su ở mức thấp trong nhiều năm gần đây đang gây khó khăn cho nông dân trồng cao su tại nước này.

Giá cao su trên thị trước quốc tế tăng trở lại đã giúp giá thu mua cao su cho nông dân trong nước tăng theo. Tại Đông Nam Bộ ngày 17/12/2019, Hội đồng giá thu mua mủ cao su tiểu điền của Cty TNHH MTV cao su Lộc Ninh (Bình Phước) thông báo giá thu mua cao su nguyên liệu tại vườn đạt mức 280 Đ/độ TSC đối với mủ nước (tăng mạnh so với mức bình quân khoảng 250 Đ/độ TSC hồi cuối tháng 10/2019).

Xuất khẩu hạt tiêu: Tăng lượng nhưng giảm về trị giá

Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương): Lũy kế từ đầu năm đến hết tháng 11 năm 2019, XK hạt tiêu của Việt Nam đạt 267,3 nghìn tấn, trị giá 674,27 triệu USD, tăng 21,4% về lượng, nhưng giảm 6,1% về trị giá so với 11 tháng năm 2018.

Từ đầu tháng 12/2019 đến nay, giá hạt tiêu xuất khẩu trên thị trường thế giới tương đối ổn định.

Cụ thể tại Brazil (từ ngày 7/10/2019 đến 11/12/2019), giá hạt tiêu đen xuất khẩu ổn định ở mức 2.250 USD/tấn. Tại cảng Kuching (Malaysia, ngày 11/12/2019) giá hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng xuất khẩu ổn định ở mức 3.685 USD/tấn và 5.275 USD/tấn.

Giá hạt tiêu XK tại một số nước SX được hỗ trợ do yếu tố mùa vụ (nhu cầu tiêu thụ vào mùa đông tăng). Tuy nhiên, giá hạt tiêu được dự báo sẽ khó tăng mạnh trong thời gian tới do nguồn cung lớn hơn nhu cầu.

Theo Tổ chức Hạt tiêu Thế giới (IPC), sản lượng hạt tiêu toàn cầu năm 2019 đạt khoảng 592.000 tấn, nhu cầu khoảng 450.000 tấn. Trong khi đó, Việt Nam sắp bước vào vụ thu hoạch năm 2020 với diện tích cây hạt tiêu khoảng 100.000 ha.

Vụ thu hoạch tại nước ta năm 2020 đang đến gần, nhưng người dân hiện vẫn hạn chế bán ra khiến giá hạt tiêu đen và hạt tiêu trắng trong 11 ngày đầu tháng 12/2019 tại thị trường nội địa tăng so với tháng 11/2019.

Xem thêm
Phú Lương lần đầu tổ chức Ngày hội hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS

Sáng 21/4, huyện Phú Lương (Thái Nguyên) tổ chức Ngày hội Tư vấn hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS năm 2024.

Năm 2024, Bình Điền đặt mục tiêu sản xuất, tiêu thụ 568.000 tấn phân bón

TP. HCM Trong năm 2024, Công ty Cổ phần Phân bón Bình Điền đặt ra nhiều mục tiêu và nhiệm vụ, trong đó sản lượng và tiêu thụ đạt trên 568.000 tấn phân bón các loại.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm