Bạn đọc gửi từ hòm thư: minhLC@gmail.com xin hỏi:
Trước đây bố tôi công tác trong ngành thuế, nay đã chuyển ngành khác nhưng vẫn còn liên quan đến vụ việc giải quyết bồi thường và trách nhiệm hoàn trả (vì cơ quan đã làm sai gây thiệt hại cho doanh nghiệp, trong đó bố tôi có phần trách nhiệm). Tôi muốn biết quy định của Nhà nước về nguyên tắc xác định mức hoàn trả của người gây ra thiệt hại. Mong luật gia quan tâm trả lời.
Trả lời:
Theo quy định tại Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, Nghị định số 16 của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật và Thông tư liên tịch số 04 ngày 23/1/2014 của Bộ Tư pháp, Tòa Án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ được quy định như sau:
Việc xác định mức hoàn trả của người thi hành công vụ được thực hiện theo quy định tại Điều 16 (xác định mức hoàn trả), Điều 18 (xác định trách nhiệm hoàn trả trong trường hợp người thi hành công vụ bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Nghị định số 16/2010/NĐ-CP nêu rõ: Mức hoàn trả của người thi hành công vụ được xác định tối đa không vượt quá số tiền thực tế mà Nhà nước đã chi trả cho người bị thiệt hại.
Xác định mức hoàn trả trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại:
Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả dưới ba mươi (30) triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối đa không quá một (1) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả từ ba mươi (30) triệu đồng đến dưới một trăm (100) triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là một (1) tháng lương và tối đa không quá hai (2) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả trên một trăm (100) triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là một (1) tháng lương và tối đa không quá ba (3) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Xác định mức hoàn trả trong trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là dưới một trăm (100) triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là ba (3) tháng lương và tối đa không quá mười hai (12) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là từ một trăm (100) triệu đồng đến dưới năm trăm (500) triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là mười hai (12) tháng lương và tối đa không quá hai mươi bốn (24) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trường hợp số tiền bồi thường thực tế đã chi trả là trên năm trăm (500) triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối thiểu là hai mươi bốn (24) tháng lương và tối đa không quá ba mươi sáu (36) tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả.
Trên đây là một số quy định về trách nhiệm hoàn trả, bạn cần nghiên cứu thêm quy định của Luật trách nhiệm bồi thường và Nghị định 16 của Chính phủ để hiểu rõ hơn.