Ngày 23/10, 13 hiệp hội doanh nghiệp đã cùng ký đơn kiến nghị gửi tới Văn phòng Chính phủ, 14 cơ quan, ban ngành, cùng Đoàn Đại biểu Quốc hội 28 tỉnh/thành phố liên quan đến Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội.
Các hiệp hội đề nghị xem xét, cân nhắc điều chỉnh và bổ sung mới để Dự thảo được ban hành không những phù hợp với thực tế của Việt Nam mà còn các nước cạnh tranh khác, là động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam và đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động.
Theo 13 hiệp hội doanh nghiệp, dự thảo quy định tỷ lệ đóng bảo hiểm bắt buộc gồm BHXH, BHYT, BHTN đối với người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ) có hợp đồng lao động vẫn giữ như Luật BHXH 2014. Nghĩa là: NLĐ đóng 10,5% (8% BHXH, 1,5% BHYT và 1% BHTN) và NSDLĐ đóng 21,5% (17,5 BHXH, 3% BHYT và 1% BHTN). Như vậy, tỷ lệ đóng của cả NLĐ và NSDLĐ là 32%.
Các hiệp hội cho rằng, tổng mức đóng vào quỹ BHXH của cả NLĐ và NSDLĐ dựa trên tỷ lệ đóng và mức lương tối thiểu vùng thì mức đóng năm 2022 đã cao hơn gần 10 lần so với năm 2007. Mặt khác, so với khu vực và thế giới, tỷ lệ đóng BHXH của NSDLĐ ở Việt Nam đang cao hơn rất nhiều nước, cụ thể Malaysia đóng 16,5%, Ấn Độ 15,25%, Indonesia 10,26%, Campuchia 6,1%, Thái Lan 5%, Myanma 2%, Bangladesh 0%.... Tại Thái Lan, nguồn quỹ BHXH không chỉ từ NLĐ và NSDLĐ mà Chính phủ cũng đóng góp thêm.
"Tỷ lệ đóng BHXH này là rất cao. Vì vậy, kiến nghị đối với tỷ lệ đóng BHXH bắt buộc của NLĐ và NSDLĐ: đưa về mức đóng của năm 2009, tức là NLĐ đóng 5% và NSDLĐ đóng 15%, tổng cộng 20%, chứ không phải 25,5% hiện nay (NSDLĐ đóng 17,5% “trong đó 3% quỹ ốm đau thai sản, 14% quỹ hưu trí và tử tuất và 0,5% bảo hiểm tai nan lao động, bệnh nghề nghiệp (BH TNLĐ BNN)” và NLĐ đóng 8%)", đại diện các hiệp hội cho hay.
Đối với tỷ lệ đóng BHTN, hiện tại Quỹ BHTN đã kết dư quá nhiều. Trong khi mục đích của quỹ BHTN nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho NLĐ, và khi quỹ đã kết dư quá nhiều thì cần giảm mức đóng để điều chỉnh quỹ về mức cân bằng.
Do đó, 13 hiệp hội đề xuất, giảm tỷ lệ đóng vào quỹ BHTN của NLĐ còn 0,5% và của NSDLĐ còn 0,5% và có lộ trình giảm tiếp cho phù hợp với điều kiện thực tế”.
Còn đối với tỷ lệ đóng vào quỹ BHYT, NLĐ đóng 1% và NSDLĐ đóng 2%. Ngoài ra, theo các Hiệp hội, tỷ lệ đóng bảo hiểm của NSDLĐ và NLĐ tại Việt Nam là quá cao so với các nước khác nhưng NLĐ tại các nước này vẫn đảm bảo chi tiêu cuộc sống khi về hưu. Trên thực tế tại thời điểm đóng vào quỹ thì giá trị tiền NSDLĐ và NLĐ tại Việt Nam đóng không hề thấp.
Vì vậy, các hiệp hội đề xuất, Việt Nam cần xem xét tổng thể việc quản lý một cách hiệu quả quỹ BHXH cũng như cách tính trượt giá nói riêng và nền kinh tế vĩ mô nói chung để tuy giảm tỷ lệ đóng BHXH nhưng vẫn đảm bảo lương hưu thực tế của NLĐ đáp ứng được nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống.
Các hiệp hội cũng cho rằng, mức hưởng các chế độ thai sản, hưu trí, tử tuất hưởng theo 1 mức tiền cụ thể hoặc dựa trên mức lương cơ sở là không hợp lý. Kiến nghị, quy định nền đóng BHXH và mức hưởng các chế độ đều căn cứ theo lương tối thiểu vùng.
Các hiệp hội đề xuất sửa nội dung dự thảo là “người tham gia, người thụ hưởng các chế độ BHXH có thể được lựa chọn nộp hồ sơ theo hình thức trực tuyến hoặc hồ sơ bản cứng”.
Về tuổi nghỉ hưu và mức hưởng lương hưu, các Hiệp hội đề xuất trong trường hợp NLĐ đủ tuổi nghỉ hưu sớm (tối đa 5 tuổi thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu) theo quy định và có thời gian đóng BHXH trên 20 năm thì được quyền về hưu, mỗi năm về hưu sớm sẽ bị trừ đi 1 tháng lương hoặc cao nhất bị trừ không quá 1% tương ứng với 1 năm như Luật BHXH 2006.
Đối với NLĐ đủ tuổi nghỉ hưu sớm (tối đa 5 tuổi thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu) theo quy định và có thời gian đóng BHXH đủ 30 năm đối với nữ và 32 năm đối với nam sẽ được về hưu ngay và hưởng hưu tối đa là 75%.
Về cách tính tỉ lệ hưởng lương hưu, các hiệp hội đề xuất, tỉ lệ hưởng lương hưu tối đa nên tính dựa trên tổng thời gian tham gia BHXH tương ứng, không nên áp mức trần 75%.
Liên quan đến quy định về thời gian hưởng chế độ ốm đau, đề xuất chỉnh sửa quy định tại khoản 2 về chế độ NLĐ nghỉ việc do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày. Cụ thể, giữ nguyên như luật BHXH hiện hành theo khoản 2 Điều 26.
13 hiệp hội doanh nghiệp gồm: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Hội Lương thực Thực phẩm TP.HCM, Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam, Hiệp hội Sữa Việt Nam, Hiệp hội Bia-Rượu-Nước giải khát Việt Nam, Hiệp hội Thực phẩm Minh Bạch, Hiệp hội các Doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, Hiệp hội Chè Việt Nam, Hiệp hội Nhựa Việt Nam, Hiệp hội các nhà sản xuất xe máy Việt Nam, Hội Mỹ nghệ và Chế biến Gỗ TP.HCM.