| Hotline: 0983.970.780

Công tác giống: Yếu tố then chốt của ngành lâm nghiệp

Thứ Hai 23/11/2020 , 16:03 (GMT+7)

Nhiều giống mới đi vào sản xuất đã đưa năng suất rừng trồng nước ta từ dưới 10 m3/ha/năm giai đoạn trước 2000-2010 lên đến 15-20 m3/ha/năm giai đoạn 2015-2020...

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh khẳng định lâm nghiệp là lĩnh vực tiềm năng và nhiều dư địa. Công tác giống là yếu tố them chốt. Ảnh: Phạm Hiếu.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh khẳng định lâm nghiệp là lĩnh vực tiềm năng và nhiều dư địa. Công tác giống là yếu tố them chốt. Ảnh: Phạm Hiếu.

Vai trò quan trọng

Trong sản xuất nông lâm nghiệp nói chung, giống có vai trò hết sức quan trọng quyết định đến năng suất và chất lượng của cây trồng. Đặc biệt trong lĩnh vực lâm nghiệp với đối tượng là cây dài ngày, khả năng tác động vào điều kiện hoàn cảnh bằng các biện pháp kỹ thuật như bón phân, tưới nước là rất hạn chế thì giống càng có vai trò quan trọng.

Các loài cây sinh trưởng nhanh như keo, bạch đàn, thông… là nhóm loài cây có vai trò quan trọng đặc biệt trong cơ cấu cây trồng rừng hiện nay ở nước ta. Là nguồn cung cấp gỗ nguyên liệu chủ yếu cho sản xuất giấy, ván dăm, ván sợi và đồ mộc phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Diện tích rừng trồng các loài cây này đến năm 2018 đạt khoảng 2,7 triệu ha, chiếm khoảng 65-70% tổng diện tích rừng trồng cả nước.

Do tầm quan trọng đặc biệt của nhóm loài cây này, trong nhiều năm qua công tác nghiên cứu chọn tạo giống và phát triển giống các loài cây này đã được quan tâm chú trọng. Đã có nhiều giống mới được công nhận và phát triển vào sản xuất nhờ đó năng suất rừng trồng nước ta đã có bước cải thiện đáng kể, từ dưới 10 m3/ha/năm giai đoạn trước năm 2000 - 2010 lên đến 15-20 m3/ha/năm giai đoạn 2015-2020, góp phần đáng kể nâng cao thu nhập đời sống người dân trồng rừng và phát triển các ngành kinh tế liên quan như sản xuất giấy, ván nhân tạo, xuất khẩu dăm gỗ và sản xuất đồ mộc xuất khẩu.

Giống có vai trò quyết định đến năng suất và chất lượng của cây trồng trong lâm nghiệp. Ảnh: Phạm Hiếu.

Giống có vai trò quyết định đến năng suất và chất lượng của cây trồng trong lâm nghiệp. Ảnh: Phạm Hiếu.

Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp (Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam – Bộ NN-PTNT) đã có những nghiên cứu chọn tạo giống tập trung cho các loài cây trồng rừng chủ lực mọc nhanh. Bên cạnh việc chọn giống theo các chỉ tiêu sinh trưởng, nghiên cứu chọn giống theo các tính chất gỗ, đặc biệt là các tính chất gỗ liên quan đến sản xuất đồ mộc như khối lượng riêng, độ co rút, độ bền uốn tĩnh, nứt gỗ cũng được quan tâm chú trọng. Ngoài ra, nghiên cứu chọn giống chống chịu sâu bệnh và các điều kiện môi trường bất lợi cũng đã được đẩy mạnh.

Đẩy mạnh công tác giống

Thông qua thực hiện các đề tài nghiên cứu, Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp đã chọn tạo và được Bộ NN-PTNT công nhận 80 giống các loài keo, bạch đàn và mắc ca, bao gồm 16 giống quốc gia và 61 giống tiến bộ kỹ thuật, đồng thời công nhận mở rộng vùng trồng cho 4 giống keo lai tự nhiên, 4 giống bạch đàn lai và 3 giống keo lá tràm.

Bên cạnh đó, Viện đã xây dựng được hơn 60 ha vườn giống các loài keo và bạch đàn trên nhiều vùng sinh thái trên khắp cả nước. Trong đó có khoảng hơn 30 ha vườn giống đã được Bộ NN-PTNT công nhận. Một số vườn giống mới đang được chăm sóc, bảo vệ và tác động chuyển hóa (tỉa thưa kiểu hình và tỉa thưa di truyền) để được công nhận là nguồn giống quốc gia tại nhiều tỉnh thành trong cả nước. Các vườn giống sau khi được xây dựng và tỉa thưa di truyền đã được chuyển giao cho các cơ sở sản xuất ở địa phương để tiếp tục quản lý và thu hái hạt giống phục vụ trồng rừng.

Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp đã chọn tạo và được Bộ NN-PTNT công nhận 80 giống các loài Keo, Bạch đàn và Mắc ca. Ảnh: Phạm Hiếu.

Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp đã chọn tạo và được Bộ NN-PTNT công nhận 80 giống các loài Keo, Bạch đàn và Mắc ca. Ảnh: Phạm Hiếu.

Về công tác giống và chuyển giao kết quả nghiên cứu chọn tạo giống vào sản xuất, từ năm 2010 đến nay, Viện Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp đã chuyển giao giống và kỹ thuật nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô cho 14 cơ sở sản xuất giống trên khắp cả nước. Việc chuyển giao được tiến hành theo hình thức trọn gói bao gồm cả việc cung cấp bình giống gốc và đào tạo tập huấn tại Viện và tại cơ sở sản xuất. Thời gian đào tạo tùy thuộc vào trình độ của học viên cũng như trình độ trang thiết bị của cơ sở sản xuất.

Với sự nỗ lực của Viện và các cơ sở sản xuất, các lớp đào tạo tập huấn chuyển giao đã được tiến hành thành công, các cơ sở sau khi được đào tạo đã làm chủ được công nghệ và đã tiến hành sản xuất giống ở quy mô lớn, từ 1 đến 4 triệu cây/năm, góp phần cung cấp cây giống chất lượng cao cho trồng rừng sản xuất.

Về hoạt động sản xuất giống, giai đoạn 2010 – 2020, Viện đã sản xuất và cung cấp hơn 4.300 bình giống gốc và hơn 1 triệu cây giống gốc bằng của các giống keo và bạch đàn được công nhận, cung cấp cho các nhà nuôi cấy mô và vườn ươm để xây dựng vườn cung cấp hom, qua đó góp phần sản xuất hơn 85 triệu cây giống mô và 150 triệu cây giống hom đáp ứng một phần nhu cầu của sản xuất kinh doanh rừng trồng.

Ông Nguyễn Đức Kiên, Viện trưởng Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp. Ảnh: Phạm Hiếu.

Ông Nguyễn Đức Kiên, Viện trưởng Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp. Ảnh: Phạm Hiếu.

Trong giai đoạn 2021-2025, Viện được giao thực hiện dự án ”Phát triển giống cây lâm nghiệp phục vụ trồng rừng kinh tế” và dự án ”Hỗ trợ sản xuất, cung ứng và lưu giữ giống gốc cây lâm nghiệp”. Đây là 2 nhiệm vụ chính trị hết sức quan trọng, tập trung vào sản xuất giống phục vụ trồng rừng với khối lượng 9.700 bình giống gốc (đáp ứng cho sản xuất 145 triệu cây mô) và 305.000 cây giống gốc (đáp ứng cho sản xuất 50 triệu cây hom) để cung cấp cho các cơ sở nhân giống đồng thời sản xuất 47 triệu cây giống mô phục vụ trồng rừng.

Ông Nguyễn Đức Kiên, Viện trưởng Nghiên cứu giống và Công nghệ sinh học lâm nghiệp, đã kiến nghị Bộ NN-PTNT phê duyệt để dự án ”Phát triển giống cây lâm nghiệp phục vụ trồng rừng kinh tế” có cơ sở tiến hành các bước theo trình tự đầu tư nhằm thực hiện dự án có hiệu quả.

Hiện nay nhu cầu sản xuất rừng trồng rất cao: 420 triệu cây/năm. Ảnh: Phạm Hiếu.

Hiện nay nhu cầu sản xuất rừng trồng rất cao: 420 triệu cây/năm. Ảnh: Phạm Hiếu.

“Ngoài ra Viện chúng tôi cũng đề nghị Bộ có văn bản chỉ đạo cho các cơ sở sản xuất giống sử dụng giống gốc chất lượng cao do Viện sản xuất, đã được nhà nước hỗ trợ kinh phí, để sản xuất cây giống chất lượng cao cho trồng rừng”, ông Nguyễn Đức Kiên nói.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh: “Lâm nghiệp là lĩnh vực rất tiềm năng và nhiều dư địa. Ngoài kinh tế ra thì lâm nghiệp còn giữ vai trò trong vấn đề về xã hội và môi trường. Hiện nay nhu cầu sản xuất rừng trồng rất cao, tận 420 triệu cây/năm, cần tổ chức tốt, thúc đẩy kinh tế và đời sống nhân dân, nhất là đồng bào trung du, miền núi, liên quan mật thiết nghề rừng”.

Xem thêm
Gần 6.400 hộ dân huyện Trạm Tấu ký cam kết bảo vệ rừng

YÊN BÁI Các vụ cháy rừng ở Trạm Tấu chủ yếu do bất cẩn của người dân khi xử lý thực bì bằng lửa, vì vậy việc đốt nương làm rẫy đang được quản lý chặt chẽ.

Trồng 33.000 cây xanh tại Vườn quốc gia Xuân Sơn

Các đơn vị trồng mới 33.000 cây, trong đó 3.000 cây bản địa (cây mỡ) và 30.000 cây keo tại vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn.

Cứu hộ thành công cá thể gấu ngựa bị cụt chi trước

HÀ NỘI Từ đầu năm 2024 đến nay, Chi cục Kiểm lâm thành phố Hà Nội đã bàn giao 5 cá thể gấu cho Trung tâm Cứu hộ Gấu Việt Nam.

Đặc sắc lễ cúng thần rừng của người Mông Nà Hẩu

Lễ cúng thần rừng là nghi lễ độc đáo được người Mông ở xã Nà Hẩu tổ chức vào ngày cuối cùng của tháng Giêng hàng năm.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm