| Hotline: 0983.970.780

Công trình thủy lợi nâng tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sạch

Chủ Nhật 03/12/2023 , 14:34 (GMT+7)

Yên Bái Yên Bái tăng cường đầu tư nâng cấp, sửa chữa các công trình thủy lợi nhằm bảo vệ tài nguyên nước, đồng thời đảm bảo cung cấp nguồn nước hợp vệ sinh cho người dân.

Nước sạch nâng chất lượng cuộc sống người dân

Trước đây, người dân xã Tân Nguyên, huyện Yên Bình (tỉnh Yên Bái) thường sử dụng nguồn nước từ các khe suối, giếng khơi để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt. Lượng rác thải sinh hoạt và việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tràn lan đã khiến các nguồn nước ngày càng ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân.

Nhiều công trình nước sạch tập trung được quản lý, vận hành tốt góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Ảnh: Thanh Tiến.

Nhiều công trình nước sạch tập trung được quản lý, vận hành tốt góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Ảnh: Thanh Tiến.

Từ các nguồn vốn của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, trong thời gian từ năm 2012 – 2018, trên địa bàn xã Tân Nguyên đã được đầu tư xây dựng 4 công trình nước sạch tập trung ở các thôn Tân Phong, Đèo Thao, Đông Ké, Khe Nhàn đáp ứng việc cung cấp nước sinh hoạt cho hơn 700 hộ dân, chiếm hơn 50% hộ dân trong xã.

Bà Trương Thị Ném ở xã Tân Nguyên chia sẻ: Từ năm 2014, công trình nước sạch Đèo Thao đi vào hoạt động đã đáp ứng nhu cầu của người dân trong thôn. Gia đình bà trước đây thường dùng nước khe suối để sử dụng, biết là nguồn nước không đảm bảo cho sức khỏe nhưng do nhu cầu của cuộc sống nên vẫn phải dùng. Từ khi có công trình nước sinh hoạt tập trung gia đình bà đã chuyển sang sử dụng hoàn toàn bằng nguồn nước sạch, từ đó cuộc sống sinh hoạt được cải thiện.

Sử dụng nguồn nước sạch giúp người dân vùng cao cải thiện sức khỏe. Ảnh: Thanh Tiến.

Sử dụng nguồn nước sạch giúp người dân vùng cao cải thiện sức khỏe. Ảnh: Thanh Tiến.

Ông Sạch Văn Mùi – Chủ tịch UBND xã Tân Nguyên (huyện Yên Bình) cho biết: Để các công trình nước sạch sau đầu tư hoạt động hiệu quả và bền vững, xã đã thành lập các tổ vận hành, quản lý, duy tu, bảo dưỡng. Các hộ dân được cấp đồng hồ đo lưu lượng nước, đóng tiền sử dụng nước hàng tháng. Xã cũng đã tuyên truyền, vận động người dân nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc sử dụng nguồn nước sạch đối với sức khỏe, sử dụng nước tiết kiệm, tham gia quản lý, sử dụng, bảo quản công trình nước sinh hoạt tập trung...

Ông Lã Tuấn Hưng – Phó chủ tịch UBND huyện Yên Bình cho biết: Trên địa bàn hiện có 20 công trình nước sạch sinh hoạt tập trung. Việc đầu tư các công trình này đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt cho các hộ dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, cải thiện điều kiện nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, nâng cao chất lượng cuộc sống và sức khỏe cho người. Đến nay, tỷ lệ hộ dân nông thôn được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh theo tiêu chí số 17.1 của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 là 95%.

Tập trung nâng cấp các công trình xuống cấp

Tại huyện Văn Chấn hiện có 1 nhà máy nước với công suất 2.000 m3/ngày và 72 công trình cấp nước sinh hoạt do cấp xã quản lý. Các công trình cấp nước đã làm tăng tỷ lệ người dân được tiếp cận bền vững với nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, phục vụ cho hơn 91% số hộ dân ở khu vực nông thôn và 71% ở khu vực đô thị. Hơn thế nữa, được sử dụng nước sạch đã giúp người dân giảm bệnh tật, đặc biệt là các bệnh liên quan đến nguồn nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của bà con.

Ông Phạm Nguyên Bình – Trưởng phòng NN-PTNT huyện Văn Chấn cho biết:  Để đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân, cung cấp nước đúng quy định, ngành nông nghiệp phối hợp với các địa phương thực hiện tốt công tác quản lý, vận hành, khai thác bền vững các công trình cấp nước, thực hiện đầy đủ các đợt kiểm tra định kỳ, kịp thời khắc phụ sự cố hệ thống đường ống nước sạch.

Theo báo cáo của Chi cục Thuỷ lợi tỉnh Yên Bái, hiện nay dân số nông thôn toàn tỉnh được tiếp cận và sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh trên 630.000 người, đạt 93%. Tỉnh Yên Bái có 358 công trình nước sinh hoạt tập trung chủ yếu là loại hình cấp nước tự chảy từ khe suối tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ có 245 công trình đang hoạt động, 104 công trình không hoạt động do hư hỏng, xuống cấp, lỗi thời.

Nhiều công trình nước sạch đã bị xuống cấp do nhiều nguyên nhân như thời gian vận hành lâu, thiên tai, địa hình phức tạp. Ảnh: Thanh Tiến.

Nhiều công trình nước sạch đã bị xuống cấp do nhiều nguyên nhân như thời gian vận hành lâu, thiên tai, địa hình phức tạp. Ảnh: Thanh Tiến.

Đối với những công trình cấp nước mới được đầu tư, nâng cấp tỷ lệ thất thoát trung bình từ 15-20%, những công trình sử dụng từ lâu có tỷ lệ thất thoát khoảng 30-40%. Tỷ lệ thất thoát do nhiều nguyên nhân như hệ thống đường ống quá dài đi theo địa hình đồi núi phức tạp, vận hành lâu năm ít được bảo dưỡng thay thế, hệ thống van, đồng hồ đã cũ, ý thức bảo vệ và sử dụng của người dân chưa cao, bão lũ gây hư hại.

Theo ông Trần Anh Văn – Phó Chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi tỉnh Yên Bái, đa số các công trình cấp nước nông thôn xây dựng ở vùng cao, địa hình đồi núi chia cắt, dân cư không tập trung. Công trình thường có quy mô nhỏ, cấp nước phân tán, chủ yếu sử dụng nguồn nước mặt ở các khe suối dẫn đến nguồn vốn đầu tư xây dựng cao. Các công trình thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, khô hạn, thiếu nước về mùa khô, lũ quét, sạt lở đất gây hư hỏng về mùa mưa nên nhanh xuống cấp. Bên cạnh đó, trình độ dân trí khu vực nông thôn còn nhiều hạn chế, ý thức bảo vệ công trình chưa cao.

Nâng cao ý thức của người trong việc bảo vệ công trình nước sạch và nguồn nước sẽ góp phần giảm tỷ lệ thất thoát nước. Ảnh: Thanh Tiến.

Nâng cao ý thức của người trong việc bảo vệ công trình nước sạch và nguồn nước sẽ góp phần giảm tỷ lệ thất thoát nước. Ảnh: Thanh Tiến.

Để nâng cao tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận và sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh theo quy chuẩn, tỉnh Yên Bái đã triển khai nhiều giải pháp như tập trung nguồn lực đầu tư hạ tầng kỹ thuật cấp nước sinh hoạt tập trung, lồng ghép nhiều nguồn vốn của các chương trình mục tiêu quốc gia để xây dựng mới và cải tạo, sửa chữa các công trình hư hỏng, xuống cấp.

Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động cấp nước sạch nông thôn, xác định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phương và người hưởng lợi đối với việc bảo vệ, sử dụng hiệu quả các công trình đã xây dựng. Thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng để tạo nguồn sinh thủy, tránh mất nguồn nước tự nhiên.

Bên cạnh việc xây mới và nâng cấp công trình nước sạch, tỉnh Yên Bái tập trung bảo vệ và phát triển rừng để tạo nguồn sinh thủy, tránh mất nguồn nước tự nhiên. Ảnh: Thanh Tiến.

Bên cạnh việc xây mới và nâng cấp công trình nước sạch, tỉnh Yên Bái tập trung bảo vệ và phát triển rừng để tạo nguồn sinh thủy, tránh mất nguồn nước tự nhiên. Ảnh: Thanh Tiến.

Tỉnh Yên Bái đặt mục tiêu đến năm 2025, tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 98%. Duy trì hoạt động ổn định các công trình thủy lợi cấp nước hiện có; lồng ghép các chương trình, dự án đầu tư nâng cấp, cải tạo, sửa chữa, mở rộng và xây mới các công trình cấp nước sinh hoạt nông thôn tập trung...

Mục tiêu đến năm 2030 có trên 50% hộ dân nông thôn sử dụng nước sạch sinh hoạt đạt quy chuẩn vệ sinh an toàn, bền vững. Vì vậy, tỉnh Yên Bái sẽ tăng cường tuyên truyền về lợi ích dùng nước sạch trong sinh hoạt, nâng cao nhận thức của người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và áp dụng các phương thức sản xuất tiết kiệm nước, giảm thiểu tác hại tới tài nguyên nước.

Xem thêm
424 hộ nghèo tỉnh Ninh Bình được hỗ trợ xây dựng, sửa chữa nhà ở

Năm 2024, tỉnh Ninh Bình sẽ hỗ trợ hơn 37 tỷ đồng xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 424 hộ nghèo, khó khăn trên địa bàn.

Hưng Yên: Nhiều giải pháp đảm bảo vệ sinh môi trường nông thôn

Những giải pháp dưới đây vừa giúp giảm căn bản ô nhiễm môi trường, vừa tạo ra lượng lớn phân hữu cơ chất lượng tốt chăm bón cho cây trồng.

Bến Tre bán sản phẩm OCOP trên Youtube, Tiktok

Hội Nông dân Bến Tre vừa có chương trình ghi nhớ hợp tác để thúc đẩy thương mại số sản phẩm OCOP.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm