| Hotline: 0983.970.780

Đã có kết luận cuối cùng về nguyên nhân ngao chết trắng bãi ở Thanh Hóa

Thứ Hai 15/04/2019 , 11:11 (GMT+7)

Trung tâm Quan trắc môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc thuộc Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I vừa có kết luận cuối cùng về nguyên nhân ngao chết tại Thanh Hóa.

Ngày 2/4/2019, Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc đến vùng có ngao nuôi chết thuộc xã Hải Lộc, huyện Hậu Lộc (Thanh Hóa). Tại đây đoàn công tác đã khảo sát và thu 9 mẫu mẫu nước, 9 mẫu đất và 21 mẫu ngao.

Kiểm tra mật độ ngao nuôi ở những bãi ngao đã được các bãi nuôi thu dọn xác ngao 2 lần cho thấy, ngao giống cỡ 1000 – 2000 con/kg là 2.500 – 3.575 con/m2, ngao thương phẩm cỡ 200 con/kg là 1.250 con/m2. Riêng bãi ngao giống chưa dọn xác ngao có mật độ 5.250con/m2. Trong khi đó, mật độ thả giống phù hợp là 500 con/m2 với cỡ 400-500 con/kg hoặc 400-450con/m2 với cỡ 300-400con/kg và 250-300con/m2 với cỡ 300con/kg.

 
Mật độ nuôi quá dày

Chênh lệch nhiệt độ ngày đêm lớn (từ ngày 15/3-2/4/2019 từ 6 – 11oC)  kết hợp với thời gian phơi bãi vào ban đêm và kéo dài 8h/ngày đã làm ngao nuôi bị sốc nhiệt, yếu và giảm sức đề kháng

Kết quả đo và phân tích các chỉ tiêu nhiệt độ, PH, độ mặn, độ kiềm, N-NH4+, NH3, N-NO2-, P-PO43-, H2S và COD trong 9 mẫu nước thu tại vùng nuôi ngao xã Hải Lộc huyện Hậu Lộc cho thấy, hàm lượng H2S trong mẫu nước thu tại bãi nuôi hộ ông Nguyễn Văn An và Nguyễn Văn Tự cao hơn ngưỡng từ 1,3 – 3 lần,  giá trị H2S đạt cao do mẫu thu tại bãi ngao chưa thu dọn xác ngao do sự phân hủy của thịt ngao chết. Trong khi đó, giá trị H2S ở bãi ngao của các hộ còn lại có giá trị nằm trong giới hạn cho phép do xác ngao chết đã được thu dọn 2 lần. Tất cả các chỉ tiêu còn lại đều nằm trong giới hạn cho phép đối với môi trường nuôi thủy sản nước mặn lợ và Quy chuẩn Việt Nam QCVN 10-MT: 2015/BTNMT.

Kết quả phân tích tảo độc hại trong các mẫu thu đã không ghi nhận sự có mặt của các loài  tảo độc hại.

Mật độ phù du trong 9 mẫu thu được rất thấp, dao động từ 73 – 325 tb/l, thể hiện môi trường nghèo dinh dưỡng, không đủ thức ăn cho ngao phát triển, ngao sinh trưởng chậm, gầy yếu, giảm sức đề kháng. Mặt khác, giải phẫu mẫu ngao thu được cho thấy 100% mẫu ngao gầy, giảm sức đề kháng khi gặp môi trường bất lợi. 9 mẫu trầm tích thu tại vùng nuôi ngao xã Hải Lộc gồm các chỉ tiêu PH, tổng cacbon hữu hiệu, tổng Nitơ hữu hiệu và tổng phốt pho hữu hiệu đều có giá trị thấp, không ảnh hưởng đến môi trường nuôi ngao.

Các thông số kim loại nặng trong nước như Zn, Pb, Cr, Cd, Hg và Ni trong 5 mẫu nước thu từ vùng nuôi ngao xã Hải Lộc đều có giá trị nằm trong giới hạn cho phép. Kết quả phân tích HerpesvirusPerkinsus bằng phương pháp PCR từ 21 mẫu ngao thu tại các vùng nuôi ngao xã Hải Lộc đều cho kết quả âm tính. Mật độ vi khuẩn Vibrio tổng số trong nước thu tại 9 điểm trong bãi nuôi ngao xã Hải Lộc chỉ có 1 mẫu 1,2x103 CFU/ml, cao hơn ngưỡng cảnh báo (103 CFU/ml). Các mẫu còn lại đều có mật độ Vibrio tổng số thấp hơn giới hạn cảnh báo. Do vậy, vi khuẩn Vibrio tổng số trong nước không phải là nguyên nhân gây ngao chết.

Mật độ Vibrio tổng số trong 9 mẫu bùn thu được đều có giá trị cao hơn giới hạn cảnh báo (103 CFU/ml) từ 1,1 – 3,4 lần do hiện tượng phân hủy xác ngao chết trong bùn là nguồn sinh dưỡng cho vi khuẩn phát triển, là tác nhân cơ hội làm ngao yếu, giảm sức đề kháng trong điều kiện môi trường không thuận lợi.

Kết quả phân tích tác nhân gây bệnh do vi khuẩn trên 21 mẫu ngao đã xác định được 3 loài vi khuẩn thuộc giống Vibrio (2 loài) và giống Aeromonas (1 loài) gồm: Vibrio. parahaemolyticus (4/21 mẫu); V. vulnificus (1/21 mẫu) và A.hydrophila (1/21 mẫu) với tỷ lệ nhiễm thấp, lần lượt là 19,0%; 4,8% và 4,8%.

Như vậy, vi khuẩn không phải là tác nhân gây bệnh ở ngao mà chỉ là tác nhân cơ hội khi ngao yếu, giảm sức đề kháng.

Từ những kết quả trên, Trung tâm Quan trắc môi trường và Bệnh thủy sản miền Bắc kết luận, các yếu tố nhiệt độ, PH, độ mặn, độ kiềm, N-NH4+, NH3, N-NO2-, P-PO43-, H2S, COD, tảo độc hại, Vibrio tổng số, Zn, Pb, Cr, Cd, Hg và Ni trong nước; các thông số pH, tổng cacbon hữu hiệu, tổng Nitơ hữu hiệu và tổng phốt pho hữu hiệu trong trầm tích; vi rút Herpes, ký sinh trùng Perkinsus và vi khuẩn không phải là nguyên nhân gây chết ngao.

Cạnh tranh thức ăn khiến ngao gầy, sức đề kháng giảm, gặp thời tiết bất lợi gây chết

Mật độ nuôi dầy dẫn đến cạnh tranh thức ăn và nơi trú ẩn, điều kiện môi trường biến động đột ngột (xuất hiện váng đỏ), nhiệt độ chênh lệch ngày đêm cao (6-11oC) là nguyên nhân chính và thời gian phơi bãi về đêm lúc nhiệt độ giảm thấp, môi trường nghèo dinh dưỡng, ngao gầy, giảm sức đề kháng là nguyên nhân gây ngao chết ở xã Hải Lộc.

Xem thêm
Nghệ An: Tôm chết hàng loạt, nghi do bệnh mới

Tôm chết nhiều trên diện tích khoảng 25ha, trong đó phần đa xuống giống chưa được bao lâu. Đây là hồi chuông báo động đối với nghề hoàng kim một thời ở Nghệ An.

Điều động 1 kíp tàu tuần tra, phòng chống khai thác IUU

Từ ngày 22/4, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu điều động 1 kíp tàu tuần tra, kiểm soát kết hợp tuyên truyền phòng, chống khai thác IUU trên vùng biển do đơn vị quản lý.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm