| Hotline: 0983.970.780

Sản phẩm cá ngừ Việt Nam có mặt tại hơn 200 thị trường trên thế giới

Thứ Bảy 08/06/2019 , 19:46 (GMT+7)

Sáng 8/6, tại TP Quy Nhơn (Bình Định), Bộ NN-PTNT phối hợp cùng UBND tỉnh Bình Định tổ chức hội nghị đánh giá kết quả sau 5 năm thực hiện Đề án thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi.

Tham gia hội nghị có đại diện ngành nông nghiệp 10 tỉnh duyên hải miền Trung. Ông Nguyễn Quang Hùng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản và ông Phan Trọng Hổ, Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Định, chủ trì hội nghị.

CNĐD ở Bình Định xuất khẩu sang Nhật Bản..

Theo ông Nguyễn Quang Hùng, cá ngừ đại dương (CNĐD) được xác định là 1 trong những đối tượng khai thác chính của ngề khai thác hải sản xa bờ, và cũng là 1 trong những ngành hàng xuất khẩu (XK) chủ lực của thủy sản Việt Nam.

Do đó, sau gần 2 thập kỷ gần đây, Chính phủ đã dành nhiều chính sách ưu đãi trong khai thác và XK CNĐD. Trong 5 năm thực hiện Đề án thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi, sản lượng khai thác và kim ngạch XK mặt hàng CNĐD tăng trưởng ngoạn mục.

“Trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018, sản lượng khai thác CNĐD tăng trưởng bình quân 6%/năm và kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tăng trưởng 7%/năm. Sản phẩm cá ngừ của Việt Nam hiện đã được XK sang 210 thị trường trên thế giới. Ngành hàng cá ngừ đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn cư dân các làng chài ven biển miền Trung, tạo nguồn thu ngoại tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho các khu vực ven biển”, ông Nguyễn Quang Hùng cho biết.

Tính đến năm 2017, cả nước có khoảng 47.870 tàu cá làm các nghề khai thác cá ngừ. Trong đó, nghề câu có 15.806 chiếc, nghề lưới vây có 4.922 chiếc, nghề lưới rê có 27.142 chiếc. Nghề khai thác CNĐD tập trung tại 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa.

Song song, sản lượng khai thác cá ngừ cũng tăng theo, từ 140.000 – 170.000 tấn/năm. Trên khắp cả nước có 25 cảng cá phục vụ cho các hoạt động của các đội tàu khai thác CNĐD. Hầu hết tại các cảng cá đều có cơ sở thu mua cá ngừ. Trong năm 2018, trên địa bàn cả nước có khoảng 185 cơ sở thu mua CNĐD, tăng gần gấp 6 lần so với năm 2014.

Bên cạnh đó, số cơ sở, DN có hoạt động chế biến và XK cá ngừ cũng tăng mạnh. Đến năm 2018 trên cả nước có 60 cơ sở, DN hoạt động chế biến và XK cá ngừ, tăng gấp 4 lần so với trước khi thực hiện Đề án thí điểm tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá ngừ theo chuỗi. Thị trường lớn tiêu thụ CNĐD của Việt Nam là Mỹ, Israel, Nhật Bản, EU, Asean.

Trong năm 2018, tổng kim ngạch XK CNĐD của Việt Nam đạt khoảng 592,87 trệu USD, tăng hơn 2,2 lần so với năm 2010, tăng hơn 1,3 lần so với năm 2014, tốc độ tăng trưởng bình quân kim ngạch XK  mặt hàng cá ngừ giai đoạn 2014-2018 đạt trên 7,7%/năm.

Các nhà máy chế biến, XK cá ngừ đồng loạt đầu tư trang bị máy móc, thiết bị cấp đông tiếp xúc (CF), đông gió và hầm đông lạnh, đông rời (IQF) để cấp đông sản phẩm cá ngừ. Đặc biệt, các DN ngày càng chú trọng hơn trong việc làm tăng giá trị cá ngừ, đẩy mạnh XK các sản phẩm cá ngừ chế biến như: Thăn, phi lê cá ngừ; cá ngừ đóng hộp ngâm dầu, cá ngừ đóng túi…

Cty CP Thủy sản Bình Định thu mua CNĐD tại Cảng cá Quy Nhơn.

Tính đến năm 2018, trên địa bàn 3 tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa đã triển khai tổ chức thực hiện được 9 mô hình liên kết khai thác CNĐD theo chuỗi. Trong đó, Bình Định có 4 mô hình, Phú Yên 2 mô hình và Khánh Hòa 3 mô hình.

Theo ông Trần Văn Phúc, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Bình Định, từ 2015 – 2017, Bình Định đã triển khai Dự án chuyển giao công nghệ, ngư cụ của Nhật để khai thác, tiêu thụ nội địa và XK CNĐD. Kết quả cho thấy, ngư dân đã vận hành thiết bị, công nghệ Nhật và ứng dụng vào SX, nhờ đó làm giảm được sức lao động cho ngư dân (giảm 1 lao động/tàu), nâng cao chất lượng cá ngừ, tăng hiệu quả sản SX.

Từ kết quả của dự án, Sở NN-PTNT Bình Định đã xúc tiến lập hồ sơ cấp quyền sở hữu công nghiệp cho nhãn hiệu “Cá ngừ đại dương Bình Định” đăng ký với Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KHCN). Tháng 6/2018 Cục Sở hữu trí tuệ đã cấp “Nhãn hiệu chứng nhận ” Cá ngừ đại dương Bình Định.

“Chất lượng và sản phẩm CNĐD của Việt Nam đã tăng trưởng rõ rệt trong những năm qua. Nhận thức, tay nghề, kỹ thuật khai thác và bảo quản sản phẩm của ngư dân cũng ngày càng được nâng cao; các tàu tham gia mô hình liên kết chuỗi đã tạo ra sự đoàn kết, gắn bó trong SX.

Để ngành hàng CNĐD tiếp tục ổn định hướng đến bền vững, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương cần tiếp tục quan tâm, bố trí nguồn vốn đầu tư xây dựng, nâng cấp đồng bộ hệ thống cảng cá ngừ chuyên dụng, chợ đấu giá cá ngừ và cơ sở hậu cần dịch vụ riêng cho CNĐD. Tăng nguồn vốn nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ khai thác, chế biến, bảo quản sản phẩm CNĐD trên tàu cá để nâng cao chất lượng sản phẩm.

Đặc biệt, cần có chính sách đào tạo nguồn nhn lực phục vụ cho ngành hàng CNĐD gồm chính sách hỗ trợ đào tạo, tập huấn, hướng dẫn ngư dân vận hành các loại máy móc, trang thiết bị hiện đại trong khai thác, bảo quản sản phẩm”, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Nguyễn Quang Hùng, đề nghị.

 

Xem thêm
Nghệ An: Tôm chết hàng loạt, nghi do bệnh mới

Tôm chết nhiều trên diện tích khoảng 25ha, trong đó phần đa xuống giống chưa được bao lâu. Đây là hồi chuông báo động đối với nghề hoàng kim một thời ở Nghệ An.

Điều động 1 kíp tàu tuần tra, phòng chống khai thác IUU

Từ ngày 22/4, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu điều động 1 kíp tàu tuần tra, kiểm soát kết hợp tuyên truyền phòng, chống khai thác IUU trên vùng biển do đơn vị quản lý.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm