Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới Việt Nam (VIAIP/WB7) được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tổng kinh phí 210 triệu USD, trong đó 180 triệu USD là vốn vay ưu đãi và 30 triệu USD là vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Dự án được triển khai từ năm 2014, đến tháng 6/2021 đã hoàn thành toàn bộ nội dung, hoạt động được phê duyệt.
Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới Việt Nam có 4 hợp phần gồm: Hợp phần 1: Hỗ trợ cải thiện quản lý tưới tiêu nước (9,5 triệu USD); Hợp phần 2: Nâng cấp hệ thống tưới tiêu (170,5 triệu USD); Hợp phần 3: Hỗ trợ thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu (23 triệu USD) và Hợp phần 4: Quản lý dự án, giám sát và đánh giá (7 triệu USD).
Mục tiêu của Hợp phần 3 là trên cơ sở hạ tầng thủy lợi được cải thiện trong Hợp phần 2 của Dự án, thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu để nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất nông nghiệp, tăng hiệu ích sử dụng nước, tăng thu nhập cho nông dân và giảm tính dễ tổn thương với các diễn biến khí hậu bất lợi, giảm phát thải khí nhà kính, từ đó đúc rút kinh nghiệm để nhân rộng trên toàn vùng dự án và cả nước.
Các hoạt động của Hợp phần 3 gồm: Xây dựng các mô hình thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu; nhân rộng các mô hình trong vùng dự án; thực hành các biện pháp giảm thiểu mức tiêu thụ nước và các tác động đến môi trường của hệ thống canh tác lúa; thúc đẩy hiện đại hóa thông qua việc sử dụng hệ thống tưới phun và tưới nhỏ giọt; tổ chức đào tạo nông dân theo phương pháp thực hành; hỗ trợ Bộ NN-PTNT nâng cấp hệ thống phổ biến thông tin về nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu.
Triển khai dự án, các tỉnh như Hà Giang và Hòa Bình còn có nhiều hạn chế như mô hình nằm ngoài khu vực thuộc Hợp phần 2 do phần lớn các hệ thống thuỷ lợi của Hợp phần 2 có quy mô nhỏ, với diện tích tưới hạn chế, chủ yếu phục vụ cho canh tác lúa, trong khi mô hình nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu thực hành tập trung vào cây ăn quả.
Về mặt kỹ thuật, qua theo dõi, tổng kết có thể thấy các nhân tố góp phần đem lại hiệu quả cho các mô hình gồm tiết kiệm nước tưới do giảm số lần tưới, giảm lượng nước tưới, giảm lượng giống sử dụng, giảm lượng phân bón, giảm thuốc BVTV.
Trong số các mô hình sản xuất lúa, áp dụng sản xuất lúa theo hướng cánh đồng mẫu lớn và chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng rau màu đã cho hiệu quả kỹ thuật cao nhất về mức độ giảm lượng tưới nước, giảm lượng giống gieo, sử dụng phân bón nhả chậm, giảm số lần phun thuốc BVTV, sử dụng phân hữu cơ vi sinh và giảm lượng phát thải khí nhà kính từ 4,3 - 4,42 tấn CO2/ha/năm.
Đặc biệt, mô hình luân canh lúa với cây rau màu khác, hiệu quả BVTV cao nhất, trên cây màu số lần thuốc BVTV giảm từ 3 - 6 lần/vụ so với canh tác thông thường.
Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh, Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới Việt Nam là dự án đầu tiên Bộ NN-PTNT cùng Ngân hàng Thế giới (WB) lồng ghép các hợp phần giữa đầu tư cho các hạ tầng thủy lợi với các mô hình nông nghiệp thông minh để tích hợp đa giá trị, nâng cao hiệu quả đầu tư của Dự án.
Dự án không chỉ nhằm tối đa hóa hiệu quả đầu tư các công trình thủy lợi mà còn góp phần hiện thực hóa chính sách, chủ trương của Đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu cùng với Chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.
Tại Quảng Nam, kết quả thực hiện các mô hình của Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới cho thấy, đối với cây lúa trong mô hình áp dụng phương thức sạ hàng với giống chất lượng đã giảm được lượng giống khoảng 30kg/ha/vụ so với ruộng ngoài mô hình. Cây lúa phát triển khỏe, giảm chi phí, giảm công chăm sóc và hạn chế sâu bệnh hại.
Ruộng lúa mô hình giảm 2,5 lần phun thuốc BVTV mỗi vụ; lượng nước trong mô hình được cắt giảm 2,7 lần so với ruộng đối chứng. Việc tăng cường bón phân hữu cơ trong mô hình cũng giảm được 29,5 kg urê/ha so với ruộng ngoài mô hình. Hiệu quả đem lại trên mô hình tăng 7 triệu đồng/ha/vụ so với canh tác theo tập quán cũ.
Với cây màu (chủ yếu là cây lạc), thông qua hướng dẫn nông dân tham gia mô hình áp dụng IPM sử dụng giống mới, dùng phân hữu cơ, bón phân cân đối nên tính hình và mức độ xuất hiện sâu bệnh ít nghiêm trọng hơn, vì vậy giảm được 2 lần phun thuốc BVTV. Năng suất trung bình của mô hình cao hơn 3,3 tạ/ha, lợi nhuận đem lại cao hơn 10,3 triệu đồng/ha so với ruộng ngoài mô hình.