| Hotline: 0983.970.780

Giảm chi phí, tăng lợi nhuận nhờ dự án nông nghiệp có tưới

Thứ Ba 21/12/2021 , 09:30 (GMT+7)

Tham gia dự án, nông dân không chỉ giảm được chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, mà còn tiếp cận, thay đổi nhận thức về sản xuất theo hướng bền vững.

Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới Việt Nam (VIAIP/WB7) được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tổng kinh phí 210 triệu USD, trong đó 180 triệu USD là vốn vay ưu đãi và 30 triệu USD là vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Dự án được triển khai từ năm 2014, đến tháng 6/2021 đã hoàn thành toàn bộ nội dung, hoạt động được phê duyệt.

Mô hình thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu trên cây lạc tại xã Thanh An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Lê Khánh.

Mô hình thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu trên cây lạc tại xã Thanh An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Lê Khánh.

Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới Việt Nam có 4 hợp phần gồm: Hợp phần 1: Hỗ trợ cải thiện quản lý tưới tiêu nước (9,5 triệu USD); Hợp phần 2: Nâng cấp hệ thống tưới tiêu (170,5 triệu USD); Hợp phần 3: Hỗ trợ thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng biến đổi khí hậu (23 triệu USD) và Hợp phần 4: Quản lý dự án, giám sát và đánh giá (7 triệu USD).

Mục tiêu của Hợp phần 3 là trên cơ sở hạ tầng thủy lợi được cải thiện trong Hợp phần 2 của Dự án, thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu để nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất nông nghiệp, tăng hiệu ích sử dụng nước, tăng thu nhập cho nông dân và giảm tính dễ tổn thương với các diễn biến khí hậu bất lợi, giảm phát thải khí nhà kính, từ đó đúc rút kinh nghiệm để nhân rộng trên toàn vùng dự án và cả nước.

Các hoạt động của Hợp phần 3 gồm: Xây dựng các mô hình thực hành nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu; nhân rộng các mô hình trong vùng dự án; thực hành các biện pháp giảm thiểu mức tiêu thụ nước và các tác động đến môi trường của hệ thống canh tác lúa; thúc đẩy hiện đại hóa thông qua việc sử dụng hệ thống tưới phun và tưới nhỏ giọt; tổ chức đào tạo nông dân theo phương pháp thực hành; hỗ trợ Bộ NN-PTNT nâng cấp hệ thống phổ biến thông tin về nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu.

Các mô hình của dự án đã giúp nông dân giảm mạnh chi phí sản xuất, thay đổi về tư duy sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững. Ảnh: Lê Khánh.

Các mô hình của dự án đã giúp nông dân giảm mạnh chi phí sản xuất, thay đổi về tư duy sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững. Ảnh: Lê Khánh.

Triển khai dự án, các tỉnh như Hà Giang và Hòa Bình còn có nhiều hạn chế như mô hình nằm ngoài khu vực thuộc Hợp phần 2 do phần lớn các hệ thống thuỷ lợi của Hợp phần 2 có quy mô nhỏ, với diện tích tưới hạn chế, chủ yếu phục vụ cho canh tác lúa, trong khi mô hình nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu thực hành tập trung vào cây ăn quả.

Về mặt kỹ thuật, qua theo dõi, tổng kết có thể thấy các nhân tố góp phần đem lại hiệu quả cho các mô hình gồm tiết kiệm nước tưới do giảm số lần tưới, giảm lượng nước tưới, giảm lượng giống sử dụng, giảm lượng phân bón, giảm thuốc BVTV.

Trong số các mô hình sản xuất lúa, áp dụng sản xuất lúa theo hướng cánh đồng mẫu lớn và chuyển đổi đất trồng lúa sang trồng rau màu đã cho hiệu quả kỹ thuật cao nhất về mức độ giảm lượng tưới nước, giảm lượng giống gieo, sử dụng phân bón nhả chậm, giảm số lần phun thuốc BVTV, sử dụng phân hữu cơ vi sinh và giảm lượng phát thải khí nhà kính từ 4,3 - 4,42 tấn CO2/ha/năm.

Đặc biệt, mô hình luân canh lúa với cây rau màu khác, hiệu quả BVTV cao nhất, trên cây màu số lần thuốc BVTV giảm từ 3 - 6 lần/vụ so với canh tác thông thường.

Theo Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh, Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới Việt Nam là dự án đầu tiên Bộ NN-PTNT cùng Ngân hàng Thế giới (WB) lồng ghép các hợp phần giữa đầu tư cho các hạ tầng thủy lợi với các mô hình nông nghiệp thông minh để tích hợp đa giá trị, nâng cao hiệu quả đầu tư của Dự án.

Dự án không chỉ nhằm tối đa hóa hiệu quả đầu tư các công trình thủy lợi mà còn góp phần hiện thực hóa chính sách, chủ trương của Đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu cùng với Chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050.

Tại Quảng Nam, kết quả thực hiện các mô hình của Dự án Cải thiện nông nghiệp có tưới cho thấy, đối với cây lúa trong mô hình áp dụng phương thức sạ hàng với giống chất lượng đã giảm được lượng giống khoảng 30kg/ha/vụ so với ruộng ngoài mô hình. Cây lúa phát triển khỏe, giảm chi phí, giảm công chăm sóc và hạn chế sâu bệnh hại.

Ruộng lúa mô hình giảm 2,5 lần phun thuốc BVTV mỗi vụ; lượng nước trong mô hình được cắt giảm 2,7 lần so với ruộng đối chứng. Việc tăng cường bón phân hữu cơ trong mô hình cũng giảm được 29,5 kg urê/ha so với ruộng ngoài mô hình. Hiệu quả đem lại trên mô hình tăng 7 triệu đồng/ha/vụ so với canh tác theo tập quán cũ.

Với cây màu (chủ yếu là cây lạc), thông qua hướng dẫn nông dân tham gia mô hình áp dụng IPM sử dụng giống mới, dùng phân hữu cơ, bón phân cân đối nên tính hình và mức độ xuất hiện sâu bệnh ít nghiêm trọng hơn, vì vậy giảm được 2 lần phun thuốc BVTV. Năng suất trung bình của mô hình cao hơn 3,3 tạ/ha, lợi nhuận đem lại cao hơn 10,3 triệu đồng/ha so với ruộng ngoài mô hình.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm