| Hotline: 0983.970.780

Chuyển đổi số trong nông nghiệp còn nhiều khó khăn, vướng mắc

Thứ Năm 11/04/2024 , 18:42 (GMT+7)

LÂM ĐỒNG Việc ứng dụng chuyển đổi số trong nông nghiệp còn nhiều khó khăn, vướng mắc do nhận thức của hầu hết doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nông dân còn hạn chế.

Tỷ lệ ứng dụng công nghệ số còn thấp

Ngày 11/4, tại TP Đà Lạt (Lâm Đồng), Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở NN-PTNT tỉnh Lâm Đồng tổ chức hội thảo khuyến nông đô thị lần 1 năm 2024 với chủ đề “Ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ”.

Hội thảo thu hút đông đảo các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan quản lý nhà nước... thảo luận về ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp hữu cơ. Ảnh: PC.

Hội thảo thu hút đông đảo các chuyên gia, nhà khoa học, cơ quan quản lý nhà nước... thảo luận về ứng dụng công nghệ số trong nông nghiệp hữu cơ. Ảnh: PC.

Hiện nay, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh trên toàn cầu đã và đang đặt ra nhu cầu đẩy mạnh phát triển nông nghiệp tại các vùng đô thị để đảm bảo an ninh lương thực và cung ứng đủ nguồn thực phẩm cho cư dân đô thị. Quá trình đô thị hóa làm gia tăng áp lực lên hệ thống cung cấp lương thực, thực phẩm cho các khu vực đô thị, đặc biệt là nhu cầu về rau quả, trái cây tươi, sạch.

Tuy nhiên, phát triển nông nghiệp tại các vùng đô thị luôn đối mặt với nhiều hạn chế như thiếu đất canh tác, ô nhiễm môi trường do khí thải, nước thải sinh hoạt, giao thông...; điều kiện sản xuất ở đô thị khác xa so với sản xuất nông nghiệp truyền thống ở nông thôn. Cùng với những tác động của biến đổi khí hậu đã làm giảm năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế của nông nghiệp đô thị.

Ông Đỗ Minh Phương, Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê nông nghiệp (Bộ NN-PTNT) cho biết, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu thế chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, việc ứng dụng các công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) được coi là giải pháp khả thi để giúp nông nghiệp đô thị Việt Nam tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.

Theo báo cáo năm 2022 của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ số ở Việt Nam mới chỉ đạt 3,8%, con số này cho thấy tiềm năng to lớn của việc chuyển đổi số trong nông nghiệp nói chung, nông nghiệp đô thị nói riêng khi ứng dụng các công nghệ mới như IoT, AI, robot tự động hóa, AI...

“Chính vì vậy, việc ứng dụng chuyển đổi số và AI trở thành yêu cầu cấp bách nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của nông nghiệp đô thị, góp phần đảm bảo cung cấp đủ nguồn lương thực, thực phẩm an toàn cho các khu vực đô thị Việt Nam”, ông Đỗ Minh Phương chia sẻ.

Quy mô nhỏ lẻ, chưa đồng bộ

Ở nước ta hiện nay, quá trình ứng dụng chuyển đổi số và AI vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung, nông nghiệp đô thị nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế và chưa phổ biến. Mặc dù đã có một số mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp đô thị được thí điểm triển khai tại các thành phố lớn như TP.HCM, Hà Nội như áp dụng trồng rau thủy canh trong nhà kính, nhà màng thông minh ứng dụng hệ thống cảm biến và điều khiển tự động, song quy mô vẫn còn ở mức nhỏ lẻ, manh mún.

Việc ứng dụng công nghệ Internet vạn vật (IoT) để tự động hóa các hệ thống tưới tiêu, giám sát và điều khiển các yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ ẩm trong các mô hình sản xuất nông nghiệp đô thị cũng chưa được áp dụng rộng rãi.

Các mô hình ứng dụng công nghệ cao như nhà kính thông minh, tưới tiêu tự động, sử dụng robot, phân tích dữ liệu lớn và AI để hỗ trợ quyết định còn ít. Ảnh: PC.

Các mô hình ứng dụng công nghệ cao như nhà kính thông minh, tưới tiêu tự động, sử dụng robot, phân tích dữ liệu lớn và AI để hỗ trợ quyết định còn ít. Ảnh: PC.

Bà Vũ Thị Hương, Chủ nhiệm CLB Khuyến nông đô thị, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông TP Hà Nội cho biết, hiện nay, nhiều địa phương đang tích cực đẩy mạnh chuyển đổi số trong nông nghiệp, giúp nâng cao năng suất, tăng giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường, giảm phụ thuộc vào môi trường, thời tiết, đồng thời kiểm soát sinh vật gây hại trong sản xuất và bước đầu mang lại những kết quả khả quan. Tuy nhiên, chuyển đổi số trong nông nghiệp tại các địa phương còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.

“Nhận thức của hầu hết doanh nghiệp, cơ sở sản xuất và nhất là nông dân về chuyển đổi số còn hạn chế, thậm chí ngay cả một bộ phận cán bộ trong ngành nông nghiệp. Việc ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phần lớn chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi số.

Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng cho phát triển, ứng dụng các công nghệ mới chưa đồng bộ, kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp; chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn cao về sản xuất, chế biến nông sản, biết sử dụng vận hành các thiết bị (tự động, số, thiết bị phân tích...) còn hạn chế”, bà Vũ Thị Hương cho hay.

Thực tế cho thấy, đa số các hộ sản xuất nông nghiệp trong đô thị tại Việt Nam hiện nay vẫn đang áp dụng các phương pháp sản xuất truyền thống với công nghệ thấp, phụ thuộc nhiều vào nguồn nhân lực lao động thủ công. Các mô hình ứng dụng công nghệ cao như nhà kính thông minh, tưới tiêu tự động, sử dụng robot, phân tích dữ liệu lớn và AI để hỗ trợ quyết định còn rất hiếm gặp.

Xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp bằng công nghệ blockchain đang được hướng đến. Ảnh: PC.

Xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp bằng công nghệ blockchain đang được hướng đến. Ảnh: PC.

Để giải quyết những khó khăn, tại hội thảo, các đại biểu đã cùng nhau thảo luận và đề xuất những giải pháp trong thời gian tới. Trước hết cần phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp đô thị công nghệ cao trên cơ sở ứng dụng các công nghệ chuyển đổi số, AI tiên tiến.

Cụ thể, xây dựng các mô hình nhà kính thông minh sản xuất rau củ, trái cây áp dụng công nghệ IoT để tự động điều khiển các yếu tố đầu vào như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, tưới nước, bón phân qua hệ thống cảm biến và điều khiển thông minh. Ứng dụng AI, Big Data để theo dõi, phân tích, tối ưu hóa điều kiện tăng trưởng của cây trồng, đồng thời phát hiện sớm dấu hiệu bất thường để xử lý kịp thời.

Bên cạnh đó, triển khai mô hình tưới tiêu, bón phân tự động dựa trên hệ thống điều khiển IoT, kết hợp với thuật toán AI để tính toán, điều chỉnh lượng nước, phân bón cần thiết cho từng đối tượng cây trồng, giai đoạn sinh trưởng khác nhau giúp tiết kiệm nguồn nước, phân bón, tối ưu hóa khâu tưới tiêu, bón phân để nâng cao năng suất…

Đồng thời xây dựng hệ thống truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông nghiệp bằng công nghệ blockchain tại các mô hình điểm và chuỗi sản xuất, cung ứng thực phẩm hữu cơ cho đô thị.

Tại hội thảo, các đại biểu thống nhất đưa ra lộ trình trong giai đoạn 2023 - 2025 tập trung ban hành các đề án, chương trình nghiên cứu và triển khai thực nghiệm các giải pháp ứng dụng chuyển đổi số, AI trong nông nghiệp đô thị; hình thành các mô hình điểm về sản xuất rau, hoa, trái cây công nghệ cao trong nhà kính, nhà màng thông minh tại các thành phố lớn.

Xem thêm
Chăn nuôi hướng đến hiệu quả bền vững tại Sóc Trăng

Gói giải pháp chăn nuôi toàn diện từ con giống, thức ăn, thuốc thú y và hỗ trợ kỹ thuật của nhà phân phối Bích Phúc giúp nhiều nông hộ đạt lợi nhuận tốt.

Số hóa quản lý chó, mèo để phòng, chống bệnh dại

Để công tác phòng, chống bệnh dại có hiệu quả, chó, mèo nuôi ở các địa phương cần được quản lý chặt chẽ, nhất là thông qua việc áp dụng số hóa.

Cao điểm phòng trừ sâu cuốn lá nhỏ hại lúa xuân vào dịp nghỉ lễ 30/4

Theo Trung tâm BVTV phía Bắc, thời điểm phòng trừ tập trung sâu cuốn lá nhỏ từ 25/4 - 5/5. Sau khi phun lần 1, nếu mật độ còn cao tổ chức phun trừ lần 2.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm