| Hotline: 0983.970.780

Học tiếng Anh - Mục đích và thực tế

Thứ Tư 25/10/2023 , 08:00 (GMT+7)

GS.TS Andrea Hoa Pham: Bài này là câu chuyện về mục đích cụ thể của việc học tiếng Anh như một ngoại ngữ hay như một ngôn ngữ thứ hai, và thực tế sử dụng…

Học tiếng Anh - Mục đích và thực tế

LTS: Bài viết của Giáo sư ngôn ngữ học Andrea Hoa Pham, hiện đang dạy tiếng Việt, Văn hóa Việt Nam và Ngôn ngữ học, Viện Đại học Florida, Hoa Kỳ.

Hai bài trước chúng tôi đã nói về việc học tiếng Anh trong nhà trường với người nước ngoài và học tiếng Anh online với người nước ngoài. Bài này là câu chuyện về mục đích cụ thể của việc học tiếng Anh như một ngoại ngữ hay như một ngôn ngữ thứ hai, và thực tế sử dụng.

Mỗi người học tiếng Anh đều có mục đích riêng. Phần lớn nghĩ rằng học để biết thêm một thứ tiếng, để sẵn sàng cho một cơ hội làm việc với người nước ngoài hoặc đi du học, hoặc để hiểu thêm một nền văn hóa, hay đơn giản là học để cha mẹ vui lòng, v.v. Còn nhỏ thì đa số học vì phụ huynh ghi danh cho, tự nguyện hay không, hoặc vì những áp lực nào đó ở trường ở lớp, hay từ bạn bè xung quanh. Lớn thì có thể nhiều em ý thức hơn học để làm gì. Khi biết được mục tiêu thì có hứng thú và quyết tâm.

Bài liên quan

Mục tiêu càng cụ thể thì càng cương quyết thực hiện, như thi đậu một kỳ thi nào đó trong nước, đáp ứng điều kiện về tiếng để được cấp học bổng đi học một chương trình nào đó ở nước ngoài, hoặc xin một công việc cần giao dịch với người nước ngoài, v.v.

Tùy mỗi mục đích mà người ta học và dùng tiếng Anh ở mỗi kiểu khác nhau

Một người Việt ở Canada làm việc cho một hãng lắp ráp máy bay lớn đã được gần ba chục năm. Người ấy nói chuyện bằng tiếng Anh với đồng nghiệp một cách tự nhiên, thoải mái, trôi chảy, đôi khi lại đệm những câu đùa, dùng tiếng lóng thân mật khiến cả bọn cười vang. Song lắng nghe, thì câu cú sai ngữ pháp lung tung. Chất giọng Việt thể hiện ở những chỗ tiếng Anh có mà tiếng Việt không có, như 'all' nói thành 'o' hay 'on'. Một chị làm ở tiệm cắt tóc ở Florida đã vài chục năm, nuôi con ăn học thành bác sĩ, nha sĩ, nói chuyện với khách hàng bằng một thứ tiếng Anh bập bõm. Phần lớn chị ấy học trong khi làm việc, từ những câu đối thoại ngắn với người Mỹ hàng ngày. Chị không nói được một câu chuyện nào song suốt có đầu có đũa bằng tiếng Anh mà không đầy rẫy những câu cụt câu què. Vẫn còn hỏi cuốn sách ngữ pháp tiếng Anh nào là hay nhất để lúc rảnh chị học thêm, nhưng chẳng có bao giờ có chuyện 'học thêm' đó, vì không cấp thiết cho công việc hàng ngày. Những người này vẫn làm được công việc cần làm như thường. Tiếng Anh của họ đủ để nói chuyện, trao đổi vài thông tin cần thiết. Họ không có nhu cầu viết lách.

Một sinh viên du học với vốn 'broken English' ấy không thể sống nổi trong môi trường dùng ngôn ngữ viết là chính, một ngôn ngữ hàn lâm. Ảnh minh họa.

Một sinh viên du học với vốn 'broken English' ấy không thể sống nổi trong môi trường dùng ngôn ngữ viết là chính, một ngôn ngữ hàn lâm. Ảnh minh họa.

Song một sinh viên du học thì cái 'broken English' ấy không thể sống nổi trong môi trường dùng ngôn ngữ viết là chính, một ngôn ngữ hàn lâm.

Khi quý vị muốn cho con học tiếng Anh, hãy nghĩ đến mục đích sâu xa là học để làm gì? Để biết nói vài câu cho bằng chị bằng em, sau này sẽ xin làm việc với các công ty nước ngoài ở Việt Nam, hay sau này đi du học...? Rõ ràng, tiếng Anh chỉ là một công cụ để một người làm được những việc muốn làm.

Vì tiếng Anh hay bất kỳ một ngôn ngữ nào cũng chỉ được xem là một công cụ, cho nên không có một chương trình Thạc sĩ hay Tiến sĩ nào chỉ để đào tạo cho giỏi một 'ngoại ngữ'. Những chương trình Sau đại học là cơ hội để sinh viên khám phá sâu một chuyên môn nào đó, rèn luyện một phương pháp nghiên cứu độc lập. Ph.D. in English có nghĩa là Tiến sĩ về Văn học Anh, với một hiểu biết khá tường tận về cấu trúc tiếng Anh và tiếng Anh trong đời sống xã hội (sociolinguistics). Việc dạy tiếng ở một trường đại học thường chỉ yêu cầu người dạy nói được tiếng ấy như tiếng mẹ đẻ, hoặc ở mức độ gần như tiếng mẹ đẻ, và có bằng Thạc sĩ. Người ta không cần đến bằng Tiến sĩ vì công việc chính là giảng dạy, không phải nghiên cứu, và cũng không đòi hỏi phải có bằng cấp sư phạm. Nếu bằng Thạc sĩ mà của ngành Ngôn ngữ học (lý thuyết hoặc ứng dụng) thì phù hợp nhất.

Người ta học như thế nào với những mục đích đa dạng ấy?

Học từ rất nhỏ là một cách nhiều người ao ước. Tuy nhiều ý kiến khác nhau, nhưng phần lớn những nghiên cứu mới nhất đều cho thấy trẻ em có thể học cả hai thứ tiếng (bilingual) cùng một lúc từ khi mới lọt lòng mà không hề bị nhầm lẫn, không bị hai tiếng tranh ảnh hưởng với nhau, gây ra xáo trộn (1). Càng có điều kiện nghe và nói cả hai thứ tiếng, việc học càng thuận lợi. Chẳng hạn có nghiên cứu cho thấy trẻ nói tiếng Anh và tiếng Pháp ở Canada, một xứ mà ngôn ngữ chính thức là Anh và Pháp, học tiếng Anh và Pháp nhanh hơn là trẻ ở Hoa Kỳ học tiếng Anh và Pháp, vì ở Hoa Kỳ ngoài tiếng Anh thì tiếng Tây Ban Nha được nói nhiều nhất. Tiếng Pháp chỉ là trong số các ngôn ngữ thiểu số khác. Một nghiên cứu khác cho thấy trẻ học nói hai thứ tiếng sẽ chậm hơn một chút vì phải học một lúc hai ngôn ngữ khác nhau (2). Có thể vốn từ ban đầu ít hơn trẻ chỉ nói một thứ tiếng, nhưng những năm sau đó thì có khi lại phong phú hơn.

Việc có thể nói hai thứ tiếng sẽ mang tới nhiều lợi thế cho các em. Ảnh minh họa.

Việc có thể nói hai thứ tiếng sẽ mang tới nhiều lợi thế cho các em. Ảnh minh họa.

Cái lợi của việc nói hai thứ tiếng rất nhiều. Thứ nhất là có thêm một công cụ nói chuyện với người thân họ hàng, những người chỉ nói được một thứ tiếng. Thứ hai nó tạo thành một căn cước về văn hóa riêng biệt của các em. Cuối cùng là giúp các em có trí phán đoán tốt hơn, sáng tạo hơn, giải quyết vấn đề tốt hơn, và mở rộng các cánh cửa tìm việc làm sau này. Trong những gia đình này, có thể là người cha nói một ngôn ngữ và người mẹ nói một ngôn ngữ khác, hoặc cha mẹ cũng nói hai thứ tiếng. Nếu không, tùy thuộc vào khu vực nơi trẻ sinh sống và môi trường ngôn ngữ ở nhà trẻ, trẻ em có thể học được hai thứ tiếng một cách tự nhiên. Việc học và nói hai thứ tiếng cùng một lúc thường dễ dàng với trẻ thuộc những gia đình di dân (tức cha mẹ nói tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh, ngôn ngữ nơi họ đến sinh sống). Ở nhà, vài ba năm đầu trẻ học tiếng của cha mẹ là chính song đã bắt đầu tiếp xúc với tiếng Anh chung quanh. Đến lúc đi học, trẻ nhanh chóng bập vào tiếng Anh dùng ở lớp.

Hai điều quan trọng nhất khi học hai ngôn ngữ cùng một lúc: một là số lượng của 'đầu vào' (input) tức trẻ cần được tiếp xúc nhiều và thường xuyên với hai ngôn ngữ này, và hai là chất lượng của 'đầu vào'. Vì thế, cha và mẹ nên dùng ngôn ngữ mà họ giỏi nhất để nói chuyện với con. Chứ không phải vì đến Hoa Kỳ sinh sống, tiếng Anh chưa giỏi nhưng vẫn cứ dùng cái tiếng Anh không chỉnh ấy nói với con.

Còn ở Việt Nam, nơi trẻ phải học tiếng Anh như một ngoại ngữ, cha mẹ muốn con được tiếp xúc với tiếng Anh từ nhỏ thì phải tạo ra được cái môi trường xung quanh mà mọi người đều nói tiếng Anh cho con. Các em phải được học tiếng Anh ít nhất như ngôn ngữ thứ hai, nếu không được là ngôn ngữ thứ nhất. Một cách người ta thường làm là gởi vào nội trú hay bán trú ở các trường "quốc tế" mà hàng ngày các em chỉ tiếp xúc với thầy cô và bạn bè, tất cả đều nói tiếng Anh thành thạo. Còn nếu chỉ học mỗi tuần vài giờ với 'người nước ngoài' thì liệu các em có thể nói tiếng Anh như 'ngôn ngữ thứ hai' được không? Câu trả lời rõ ràng là không, trừ phi em bé đặc biệt có năng khiếu về ngoại ngữ và ham học.

Như vậy thì có nên ép buộc các em học tiếng Anh quá sớm, nhất là khi chưa biết rõ mục đích là để làm gì? Nếu có ý định cho con du học trước khi trẻ lên 11-12 tuổi, không cần chuẩn bị gì nhiều về ngoại ngữ. Trẻ di dân sang Bắc Mỹ được tính theo tuổi và thả vào học chung với các trẻ bản xứ. Học thêm vài giờ tiếng Anh mỗi tuần. Như cá bơi trong nước, một thời gian sau các em nhanh chóng làm chủ được cái tiếng buộc phải dùng hàng ngày ấy.

Nếu cha mẹ muốn cho đi du học khi trẻ đã lớn, chỉ cần bỏ một năm đầu học tiếng khi vừa đặt chân đến Bắc Mỹ (hoặc bất kỳ nước nào trẻ định học). Chừng ấy đã đủ để năm sau vào lớp học bình thường.

GS.TS Andrea Hoa Pham

Trẻ em Việt có ý định sang Bắc Mỹ để học đại học hoặc sau đại học, chỉ cần khi sang đến nơi, theo học các lớp luyện thi để thi môn tiếng Anh bắt buộc cho học sinh những nước không nói tiếng Anh, thường là TOEFL (Test of English as a Foreign Language - Thi tiếng Anh như một Ngoại ngữ). Nếu chưa biết gì thì đối với trẻ trung bình, học một năm tiếng Anh trước, sau đó vào các lớp luyện thi. Tùy ngành học, trẻ có thể thi đạt điểm yêu cầu sớm hơn hoặc muộn hơn, vì ngành tự nhiên yêu cầu số điểm thấp hơn là ngành xã hội. Khi vào chương trình, lúc đầu sẽ còn vất vả nhưng sẽ hoàn thiện từng ngày, đủ để xong một chương trình đại học hoặc Sau đại học. Xong các bằng cấp này, tiếng cũng chưa thể diễn đạt như người bản xứ, vì ngoài tiếng, vốn văn hóa trong ngôn ngữ là một thử thách. Đây là chỗ những câu viết ra đọc lên biết ngay dịch từ tiếng mẹ đẻ sang.

Khi đã vào đại học, sinh viên biết cái khó nhất không phải là nói, mà là viết. Phải làm bài kiểm tra, tiểu luận, rồi cấp cao hơn thì viết bài nghiên cứu, làm luận văn, luận án. Nói có sai sót như thế nào người ta cũng có thể hiểu được. Nhưng viết mà câu cú lôm côm, ngữ pháp sai hết chỗ này đến chỗ nọ, dùng từ không thích hợp (không phải cứ tra từ điển rồi điền vào), ý nghĩa thì nhảy cóc vì nghĩ trong tiếng mẹ đẻ, khiến câu văn lủng củng, khó hiểu. Khi thầy giáo đọc không hiểu, điểm thấp đã đành mà sinh viên còn không nhận được những phản biện cần thiết để biết mình sai ở đâu về nội dung. Kỹ năng viết chỉ được hoàn thiện hàng ngày qua những bài tiểu luận này. Đó là 'chiến trường' ác liệt nhất để học viết.

Học các chương trình Sau đại học thì không tránh khỏi việc phải đọc tài liệu nghiên cứu. Nếu tài liệu tìm được và cần cho bài viết mà bằng một thứ tiếng không phải tiếng Anh thì sẽ thế nào? Cho nên điều kiện để sinh viên Sau đại học được nhận vào chương trình hoặc để tốt nghiệp, là phải ngoài tiếng Anh, còn đọc được hai thứ tiếng nữa. Chỉ cần biết đọc là đủ.

Cũng vì người ta xem tiếng Anh chỉ là công cụ, việc nói tiếng Anh với chất giọng (accent) của tiếng mẹ đẻ không làm giảm đi năng lực của một người. Những giáo sư trong Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Á Phi, nhiều người nói với một accent nặng trịch, nghe phải rất quen mới hiểu hết. Sinh viên có vỡ đầu cũng phải ráng căng tai ra mà hiểu bài giảng. Song tất nhiên còn có sách và tài liệu để sinh viên dựa vào. Với các công trình nghiên cứu xuất sắc, các giáo sư ấy vẫn thăng hàm, vẫn làm ở các vị trí lãnh đạo như những người bản xứ.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, xu hướng xem việc nói lưu loát quan trọng hơn là phát âm chuẩn. Ảnh minh họa.

Nhiều nghiên cứu cho thấy, xu hướng xem việc nói lưu loát quan trọng hơn là phát âm chuẩn. Ảnh minh họa.

Ngày nay trong ngành Ngôn ngữ học Ứng dụng, nhiều nghiên cứu cho thấy xu hướng xem việc nói lưu loát (tức giọng nói lên xuống tự nhiên như người bản xứ) quan trọng hơn là phát âm chuẩn (tức không có chất giọng tiếng mẹ đẻ). Nói với một ngữ điệu (intonation) như người bản xứ nghe dễ hiểu hơn là đánh vật với cách phát âm mỗi từ sao cho 'chính xác'.

Cuối cùng, cần thấy rằng học một ngoại ngữ ở mức dùng thành thục được là việc không dễ. Ngoại ngữ đòi hỏi thực hành, lặp đi lặp lại, và sức ghi nhớ từ vựng. Không có từ vựng thì ngôn ngữ nghèo nàn, không nói được quá dăm ba câu chào hỏi. Chính vì nỗ lực phải ghi nhớ này mà người ta xếp ngoại ngữ vào các loại hoạt động cho người lớn tuổi như một biện pháp làm chậm quá trình mất trí nhớ ngắn hạn (dementia). Các hoạt động khác cho cùng mục đích là học một nhạc cụ nào đó, chơi ô chữ, hoặc học một môn nhảy múa, những thứ buộc trí não phải tập thể dục. Thông minh thì học ngoại ngữ nhanh hơn, nhưng không bù đắp được nếu không chăm chỉ. Mà muốn chăm chỉ thì lại phải có hứng thú.

Tuy ai cũng có thể học để nói và viết ở mức độ nào đó, ngoại ngữ không phải là thứ dành cho mọi người. Nhiều người học mãi nó vẫn không chịu vào cho. Như một ngành nghệ thuật, ngoại ngữ cần năng khiếu. Nó cũng cần sự ham thích đủ để có thể học ngày này sang ngày khác mà không nản.

Nếu không có năng khiếu, không ở trong môi trường thuận lợi, lại thiếu ham mê thì không có động lực nào có thể làm trẻ 'ghi nhớ' từ vựng nổi.

GS.TS Andrea Hoa Pham

Vì thế, mọi ép buộc đều không đưa đến kết quả khả quan. Và như đã nói ở trên, nếu không rõ học một ngoại ngữ để làm gì, thì việc ép buộc chẳng những không hiệu quả, còn làm khổ con trẻ, mà bố mẹ cũng bị căng thẳng vì 'cầm đèn chạy trước ô tô'. Khi nào nhu cầu đến, trẻ muốn đạt mục đích nào đó cần tiếng Anh, mọi việc sẽ dễ dàng. Khi ấy việc học tiếng không còn là một gánh nặng của sự phải biết ngoại ngữ, mà học một cách tự nhiên như một ngôn ngữ thứ hai.

(1) Byers-Heinlein K, Lew-Williams C. Bilingualism in the Early Years: What the Science Says. Learn Landsc. 2013 Fall;7(1):95-112. PMID: 30288204; PMCID: PMC6168212.

(2) Erika Hoff. Bilingual Development in Children of Immigrant Families. Child Development Perspectives, 2018; 12 (2): 80

Xem thêm
5 giải pháp cho vụ hè thu đặc biệt khó khăn ở Nghệ An

Vụ hè thu năm nay của Nghệ An đang đứng trước những khó khăn lớn do thời tiết gây ra, nhất là nắng nóng, hạn hán.

Syngenta Việt Nam ra mắt lúa lai 3 dòng thế hệ mới SYN8

Giống lúa lai 3 dòng thế hệ mới Syn8 được Syngenta đưa về Việt Nam từ năm 2020, qua nhiều cuộc khảo nghiệm, đánh giá đã thể hiện được các ưu thế vượt trội.

Cảm biến giúp nuôi trồng thủy sản thích ứng biến đổi khí hậu

Hệ thống cảm biến Internet of Things (IoT) mới, chi phí thấp có thể giúp ngành nuôi trồng thủy sản ở các nước đang phát triển chống lại tác động của biến đổi khí hậu.

DG SANTE nêu điều kiện để Việt Nam xuất khẩu phở bò sang EU

Những sản phẩm tổng hợp như phở bò chịu sự điều chỉnh của quy định mới (EC) 2022/2292, đòi hỏi công khai, minh bạch nhiều thông tin về xuất xứ, cơ sở chế biến.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm