| Hotline: 0983.970.780

Làm gì để thu hút doanh nghiệp đầu tư nuôi biển xa bờ?

Thứ Hai 01/04/2024 , 05:38 (GMT+7)

Doanh nghiệp nuôi biển xa bờ hiện nay còn rất ít, bởi đòi hỏi tiềm lực tài chính mạnh, kinh nghiệm ‘sóng gió’ ở trình độ cao.

Đối với phát triển công nghiệp nuôi biển xa bờ, Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định, sẽ phát triển mạnh nuôi các đối tượng có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ lớn trên vùng biển xa bờ. Ảnh: Duy Học.

Đối với phát triển công nghiệp nuôi biển xa bờ, Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định, sẽ phát triển mạnh nuôi các đối tượng có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ lớn trên vùng biển xa bờ. Ảnh: Duy Học.

Quá tải nuôi biển gần bờ

Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển (hay còn gọi là nuôi biển) đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đặt mục tiêu cụ thể, đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3; sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt 0,8-1 tỷ USD. Đến năm 2030, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8-2 tỷ USD.

Bài liên quan

Tầm nhìn đến năm 2045, ngành công nghiệp nuôi biển của nước ta đạt ở trình độ tiên tiến với phương thức quản lý hiện đại. Công nghiệp nuôi biển trở thành bộ phận quan trọng trong ngành thủy sản, có đóng góp trên 25% tổng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu đạt trên 4 tỷ USD.

Về phát triển nuôi biển gần bờ, ưu tiên phát triển nuôi, trồng các đối tượng có thị trường tiêu thụ và lợi thế cạnh tranh: Nhóm cá biển; nhóm giáp xác; nhóm nhuyễn thể; nhóm rong, tảo biển; sinh vật cảnh và các đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế khác.

Áp dụng phương thức nuôi công nghiệp, ưu tiên phát triển các mô hình nuôi đa loài phù hợp với từng vùng sinh thái, sức tải môi trường, gắn với bảo vệ, phát triển nguồn lợi và đồng quản lý ở vùng bãi triều, đầm phá, rừng ngập mặn ven biển.

Đối với phát triển công nghiệp nuôi biển xa bờ, Đề án xác định sẽ phát triển mạnh nuôi các đối tượng có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ lớn trên vùng biển xa bờ; nhóm cá biển có giá trị kinh tế cao, nhóm nhuyễn thể và các đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế khác.

Nuôi công nghiệp, hiện đại, quy mô lớn, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu; sử dụng hệ thống lồng, bè có kết cấu và vật liệu phù hợp với từng đối tượng nuôi, chịu được biến động thời tiết (sóng to, gió lớn, bão).

Hình thành các vùng nuôi biển xa bờ tại các tỉnh trọng điểm như Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, Đại biểu Quốc hội khóa XV, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Thủy sản Việt Nam, đối với những vùng cửa sông ven biển, hiện nay mật độ nuôi trồng thủy sản ở mức cao, gây ra áp lực lên môi trường. Bên cạnh đó, ở những khu vực nuôi này cũng đang xảy ra xung đột lợi ích với các ngành, nghề khác.

Còn theo TS. Phạm Anh Tuấn, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản: “Chúng ta phải nhìn theo 2 vùng nuôi biển, đó là nuôi gần bờ và xa bờ. Đối với nuôi biển gần bờ, hiện tại đã phát triển gần hết, kéo theo đó là dịch bệnh và ô nhiễm môi trường khiến người nuôi trồng thủy sản gặp nhiều khó khăn. Nhiều khi chuẩn bị đến lúc thu hoạch lại bị thất thu”.

Tạo thuận lợi về chính sách để thu hút doanh nghiệp nuôi biển xa bờ

TS. Phạm Anh Tuấn cho hay, nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng thủy sản biển tại thị trường nội địa ngày càng gia tăng khi mức thu nhập của người dân cải thiện. Bên cạnh đó, sự gia tăng không chỉ đối với nhu cầu làm thực phẩm, mà còn là để cung cấp nguyên liệu phục vụ cho các nhà hàng hay ngành dược phẩm và mỹ phẩm. Đây là điều kiện thuận lợi để chúng ta phát triển nuôi biển”.

Đối với thị trường thế giới, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu (EuroCham) tại Việt Nam Gabor Fluit chia sẻ, theo dự đoán của các chuyên gia, nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm thủy sản biển của thế giới trong các năm tới sẽ tăng mạnh vì hai lý do. Thứ nhất, khai thác thủy sản đang ở mức gần như tối đa. Thứ hai, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến các sản phẩm nuôi biển vì tương đối ngon và tốt cho sức khỏe.

“Việt Nam có khí hậu tốt, vùng biển rộng lớn, nhiệt độ nước phù hợp cho phát triển nuôi biển. Do đó, Việt Nam có nhiều cơ hội để có thể tham gia thị trường lớn với lĩnh vực này. Hiện nay có thể vẫn còn nhỏ lẻ nhưng trong tương lai khả năng sẽ tăng rất mạnh. Cùng với chính sách của Chính phủ Việt Nam muốn thu hút đầu tư vào lĩnh vực nuôi biển, tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ có rất nhiều cơ hội để tăng thị phần đầu tư vào lĩnh vực này”, Chủ tịch EuroCham nói thêm.

Nhiều chuyên gia nhận định, khi nuôi biển gần bờ đang quá tải, việc phát triển ngành công nghiệp nuôi biển xa bờ là cần thiết. Ảnh: Duy Học.

Nhiều chuyên gia nhận định, khi nuôi biển gần bờ đang quá tải, việc phát triển ngành công nghiệp nuôi biển xa bờ là cần thiết. Ảnh: Duy Học.

Đồng quan điểm, Đại sứ Na Uy tại Việt Nam Hilde Solbakken cho rằng: “Trong bối cảnh hiện nay, nuôi biển là hướng đi tất yếu. Khi mà dân số thế giới cũng như nhu cầu lương thực vẫn tăng đều, thì nuôi biển giúp đáp ứng nhu cầu hải sản gia tăng, giảm áp lực khai thác nguồn lợi biển, giúp cân bằng giữa sử dụng và gìn giữ tài nguyên biển, phát triển ngành công nghiệp nuôi biển bền vững”.

Nhiều chuyên gia nhận định, khi nuôi biển gần bờ đang quá tải, việc phát triển ngành công nghiệp nuôi biển xa bờ là cần thiết. Tuy nhiên, điều này không hề dễ dàng vì doanh nghiệp chưa mấy mặn mà do các cơ chế, chính sách chưa thuận lợi.

TS. Phạm Anh Tuấn nói: “Đối với nuôi biển xa bờ, rõ ràng nhìn thấy tiềm năng, nhưng không phải ai cũng có thể phát triển được, vì nuôi xa bờ đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ cao và nguồn nhân lực đảm bảo”.

Theo đó, TS. Phạm Anh Tuấn cho rằng: “Với nuôi xa bờ, cần có chính sách để khuyến khích tổ chức, cá nhân phát triển, để họ đầu tư công nghệ, giải quyết những bất cập về con giống, thức ăn…”.

Còn theo ông Gabor Fluit, hiện nay khó khăn nhất đối với các đơn vị muốn tham gia đầu tư nuôi biển, đó là rủi ro về thời tiết, bão, mưa gió, dịch bệnh… bởi vốn đầu tư cho nuôi biển không thể nhỏ được vì phải làm chuyên nghiệp.

“Việt Nam cần phải có một quy hoạch tổng thể để xác định được khu vực nào phù hợp nuôi biển, khi đó nhiều doanh nghiệp mới có thể tham gia đầu tư lớn, vì đây là lĩnh vực mới nên các công ty tham gia phải thấy yên tâm về tương lai của 20 hoặc 30 năm tới”, Chủ tịch EuroCham đề xuất.

Ngày 1/4, Bộ NN-PTNT và tỉnh Quảng Ninh tổ chức “Hội nghị Phát triển bền vững nuôi biển - Nhìn từ Quảng Ninh”. Hội nghị do Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan và Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Xuân Ký chủ trì. Dự kiến, Hội nghị sẽ thu hút khoảng 400 - 450 đại biểu trong nước và quốc tế tham dự.

Sự kiện được Báo Nông nghiệp Việt Nam phát trực tiếp trên các nền tảng đa phương tiện.

Quý vị có thể tham dự qua zoom. ID: 939 8269 4473. Mật mã: 202404

Xem thêm
Nghệ An: Tôm chết hàng loạt, nghi do bệnh mới

Tôm chết nhiều trên diện tích khoảng 25ha, trong đó phần đa xuống giống chưa được bao lâu. Đây là hồi chuông báo động đối với nghề hoàng kim một thời ở Nghệ An.

Điều động 1 kíp tàu tuần tra, phòng chống khai thác IUU

Từ ngày 22/4, Bộ Chỉ huy BĐBP tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu điều động 1 kíp tàu tuần tra, kiểm soát kết hợp tuyên truyền phòng, chống khai thác IUU trên vùng biển do đơn vị quản lý.

Xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm tăng 22,3%

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, trong 2 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2023.

Có máy tời kéo thuyền, ngư dân khỏe re

QUẢNG TRỊ Chiếc máy tời nhỏ gọn nổ xình xịch, kéo theo thuyền đánh cá lên bờ một cách nhẹ nhàng. Ngư dân vì thế giảm được sức người trong khai thác hải sản.

Bình luận mới nhất

Tòa soạn chuyển cho tôi ý kiến bình luận của bạn đọc Kỳ Quang Vinh từ Cần Thơ, nguyên văn như sau: “Tôi cám ơn TS Tô Văn Trường đã có cái đầu lạnh của một người làm khoa học. Tôi thấy nội dung chính của bài báo là rất đáng suy nghĩ và làm theo. Tôi chỉ có một thắc mắc về kiểm soát lưu lượng bình quân ngày lớn nhất qua tuyến kênh là 3,6 m3/s”. Bạn đọc nên hiểu con số 3,6 m3/s chỉ là mở van âu thuyền cho nước đầy vào âu thuyền như thiết kế trong báo cáo của Campuchia. Chuyện mất nước trong bài báo tôi đã nói rõ rồi, đương nhiên hạn tháng 3-4 sẽ bị tác động lớn nhất theo tỷ lệ phần trăm vì lưu lượng thời kỳ này là thấp nhất. Lưu ý là ba kịch bản diễn giải như trường hợp 1 lưu lượng max bình quân ngày là 3,6 m3/s qua âu nghĩa là vận hành có kiểm soát theo thông báo của Campuchia. Các trường hợp 2 và 3 là vượt ra ngoài thông báo của Campuchia nghĩa là mở tự do bằng kịch bản 2 cộng gia tăng sản lượng nông nghiệp. Nhẽ ra, tôi nên viết rõ hơn là trường hợp 3 phải là như trường hợp 2 mở tự do kết hợp với gia tăng phát triển nông nghiệp. Tòa soạn cũng chuyển cho tôi bình luận của bạn đọc Nat về vị trí 3 tuyến âu, việc sử dụng nước và đánh giá chung là tác động của kênh đào Funan Techo không đáng kể đến đồng bằng sông Cửu Long. Điều tôi quan ngại nhất là khi Campuchia có ý định làm đập kiểm soát nguồn nước ở Biển Hồ hay là làm thủy điện ở sát gần biên giới Việt Nam. Trả lời bạn đọc thì mất thời gian trong khi quỹ thời gian của tôi rất eo hẹp nhưng cũng là niềm vui vì sản phẩm của mình làm ra được nhiều người quan tâm, đón đọc và bình luận. Tòa soạn cho biết ngay lúc đang buổi trưa 25/4 có gần nghìn người đang đọc bài viết của tiến sĩ Tô Văn Trường.
+ xem thêm