| Hotline: 0983.970.780

Nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức về giám sát mã số vùng trồng

Thứ Năm 20/04/2023 , 18:17 (GMT+7)

TP.HCM Nhiều địa phương chỉ mới tập trung mở rộng số lượng mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói mà chưa quan tâm đúng mức công tác kiểm tra, giám sát các vùng trồng.

Ngày 20/4, tại TP.HCM, Cục Bảo vệ thực vật tổ chức hội nghị “Phổ biến quy định về cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu”. Hội nghị nhằm triển khai văn bản chỉ đạo số 1776 /BNN-BVTV ngày 23/3/2023 của Bộ NN-PTNT về việc cấp và quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói nông sản phục vụ xuất khẩu.

Ông Hoàng Trung cho rằng tiến độ cấp mã số vùng trồng đang quá chậm. Ảnh: Thanh Sơn.

Ông Hoàng Trung cho rằng tiến độ cấp mã số vùng trồng đang quá chậm. Ảnh: Thanh Sơn.

Hội nghị có sự tham dự của khoảng 300 khách mời đến từ các đơn vị thuộc Bộ NN-PTNT, Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, các đơn vị thuộc Cục Bảo vệ thực vật, các sở NN- PTNT, các chi cục trồng trọt và BVTV, trung tâm khuyến nông các tỉnh, thành phố, các viện nghiên cứu, các hiệp hội ngành nghề liên quan, đại diện các vùng trồng, cơ sở đóng gói và các đơn vị xuất khẩu.

Ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho biết, hiện nay, trên toàn quốc có 6.439 vùng trồng tại 53/63 tỉnh, thành phố và 1.618 cơ sở đóng gói tại 33 tỉnh, thành phố đã được cấp mã số xuất khẩu, bao gồm 25 sản phẩm như thanh long, nhãn, vải, xoài, chôm chôm, vú sữa, chanh, bưởi, măng cụt, dưa hấu, mít, chuối, thạch đen và khoai lang, tập trung xuất khẩu đi 11 thị trường gồm Trung Quốc, Hoa Kỳ, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, Thái Lan, UAE, Malaysia và Singapore.

Tiến độ cấp mã số vùng trồng hiện đang quá chậm vì mới chỉ có khoảng 500 nghìn ha có mã số vùng trồng.

Mặc dù các nước nhập khẩu ngày càng nâng cao rào cản kỹ thuật, nhưng nhiều địa phương, tổ chức và cá nhân chỉ mới tập trung vào mở rộng số lượng diện tích vùng trồng và cơ sở đóng gói mà chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra, giám sát các vùng trồng nhằm đảm bảo tuân thủ yêu cầu của nước nhập khẩu. Điều này đặt ra nhiều thách thức đối với việc xuất khẩu sản phẩm trồng trọt của Việt Nam, thậm chí có thể dẫn đến nguy cơ bị dừng xuất khẩu toàn ngành hàng.

Hiện cả nước mới chỉ có khoảng 500 nghìn ha được cấp mã số vùng trồng. Ảnh: TL.

Hiện cả nước mới chỉ có khoảng 500 nghìn ha được cấp mã số vùng trồng. Ảnh: TL.

Chính vì vậy, để đảm bảo tuân thủ đúng yêu cầu xuất khẩu, tất cả các bên liên quan trong chuỗi cần hiểu rõ quy định và chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết và quản lý chặt chẽ hơn nữa vùng trồng cũng như cơ sở đóng gói. Cục Bảo vệ thực vật đã tham mưu Bộ NN-PTNT ban hành văn bản hướng dẫn số 1776/BNN-BVTV để phân cấp rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của từng bên.

Việc thực hiện văn bản 1776/BNN-BVTV sẽ giúp tăng tính minh bạch, trách nhiệm của các bên, giảm thiểu các hành vi không tuân thủ về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm, phòng chống hành vi gian lận thương mại và tạo điều kiện truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Cục Bảo vệ thực vật sẽ luôn đồng hành cùng các địa phương, đơn vị, tổ chức và cá nhân liên quan để hướng dẫn thực hiện văn bản này một cách hiệu quả nhằm tăng cường mức độ tuân thủ quy định của các nước nhập khẩu về kiểm dịch thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm, góp phần nâng cao uy tín của nông sản Việt.

Xem thêm
Nuôi đuông cọ '1 vốn 9 lời'

PHÚ THỌ Vốn chỉ được tìm thấy bên trong thân cây cọ nhưng hiện nay, đuông cọ đã được người dân nhân giống, phát triển thành mô hình chăn nuôi mới, hiệu quả cao.

Tuân thủ phác đồ điều trị bệnh trên tôm hùm

KHÁNH HÒA Người nuôi cần tuân thủ điều trị bệnh cho tôm hùm theo đúng phác đồ đã được cơ quan nhà nước công nhận và hướng dẫn của cơ quan chuyên môn.

C-Farm hái quả ngọt từ công nghệ tiên tiến

BÌNH DƯƠNG Nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất cam, quýt và chiến lược thương mại điện tử bài bản, C-Farm đã tạo ra sản phẩm chất lượng và kênh tiêu thụ hiệu quả.

Bình luận mới nhất

Trong bài này, tác giả (sau đây xưng là Nattoi) để cập chủ yếu 03 vấn đề, trong đó chủ yếu tập trung cho giải quyết vấn đề số 1, hai vấn đề còn lại chỉ được nhắc đến: Một: Phương pháp thiết kế điều tiết lũ hiện hành chưa đưa thông số mực nước an toàn ở hạ du vào tính toán nên yêu cầu phòng chống lũ cho hạ du chưa được đảm bảo và không có tiêu chí để xác định hiệu quả vận hành giảm lũ. Vấn đề này đã được Nattoi giải quyết cả về mặt lý thuyết và thực hành (trình bày ở mục 3.4). Hai: Tiêu chí xác định MNCNTL, MNTNĐL không được công khai, minh bạch, làm cho việc kiến nghị điều chỉnh hạ thấp 2 mực nước đối với các hồ chứa thủy điện nhằm tăng dung tích trống phòng lũ là điều bất khả. Về vấn đề này (trình bày tại Mục 3.1), Nattoi chưa nêu cụ thể phương án giải quyết là để tập trung nội dung vào vấn đề số 1 như đã nêu, nhưng hướng giải quyết là đã có. Ba: Vấn đề bán con trâu mà tiếc sợi dây thừng: Thiết kế xây dựng đập, hồ chứa nước được tính toán an toàn ổn định lật, trượt đến mực nước lớn nhất thiết kế và kiểm tra với mực nước lớn nhất kiểm tra, cho phép giữ mực nước hồ không vượt quá mực nước lớn nhất kiểm tra nhưng lại chỉ cho phép sử dụng dung tích trống phòng lũ đến mực nước dâng bình thường là sự lãng phí ghê gớm trong đầu tư xây dựng và quản lý an toàn đập, hồ chứa nước. Hướng giải quyết vấn đề số 3 (trình bày tại Mục 3.2) vốn là tự nhiên đã có nhưng không được sử dụng vì không nghĩ đến giảm lũ cho hạ du.
+ xem thêm